Mô hình tăng trưởng Solow giải thích tính chất hội tụ của các nền kinh tế hay sự cân bằng cách biệt giàu nghèo giữa các quốc gia. Nếu hai nền kinh tế do điều kiện lịch sử mà xuất phát với hai mức vốn khác nhau, quốc gia có mức thu nhập thấp hơn tất yếu sẽ tăng trưởng nhanh hơn, dần đuổi kịp quốc gia có thu nhập cao hơn, nhờ tăng tỷ lệ tiết kiệm.
Một đóng góp đặc biệt quan trọng của mô hình Solow là cho thấy được vai trò của thay đổi công nghệ trong quá trình tăng trưởng. Tiến bộ công nghệ giúp cho vốn và lao động trở nên tốt hơn, nền kinh tế có thể sản xuất nhiều sản lượng hơn với cùng giá trị vốn và lao động như cũ. Chính vì vậy, các nước có thu nhập cao như Anh, Pháp, Mỹ, Đức vẫn có thể duy trì tăng trưởng thu nhập trên đầu người trong những quãng thời gian rất dài nhờ nhanh chóng ứng dụng các tiến bộ công nghệ.
Như vậy, vấn đề đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách là làm thế nào để tiếp thu công nghệ mới một cách tốt nhất. Đối với hầu hết các nước thu nhập thấp, tuy phát minh trong nước ít nhiều có thể thực hiện được nhưng trong nhiều lĩnh vực có lẽ cách hữu hiệu nhất về chi phí đối với các nhà kinh doanh là tiếp thu công nghệ mới từ các nước khác và thích ứng công nghệ đó phù hợp với đặc điểm của địa phương.
Quan điểm của Philip Kotler
Kotler et al. (2002) cho rằng, những thách thức trong cạnh tranh theo xu hướng toàn cầu hóa đòi hỏi các quốc gia, địa phương phải thay đổi cách nhìn. Tương lai phát triển của các địa phương không tùy thuộc vào vị trí địa lý, khí hậu, tài nguyên thiên nhiên. Tương lai phát triển của địa phương tùy thuộc vào chuyên môn, kỹ năng đóng góp, phẩm chất của con người và tổ chức tại địa phương. Một cách nhìn về địa phương mà nhiều nhà hoạch định chính sách đều đồng ý đó là việc xem một địa phương như một thương hiệu gọi là thương hiệu địa phương, để marketing nó.
Đánh giá chung: các quan điểm về phát triển kinh tế địa phương của các tác giả trước đây có sự khác biệt trong cách tiếp cận phát triển kinh tế địa phương. Theo Solow (1956), cung sẽ tạo ra cầu và do đó sẽ phụ thuộc vào khả năng huy động nguồn lực của địa phương. Keynes (1936) cho rằng, cầu sẽ tạo ra cung và do đó sẽ phụ thuộc vào thị trường địa phương. Kotler et al. (2002) xác định, nhu cầu tạo ra thị trường và do đó sẽ phụ thuộc vào khả năng marketing thành công của địa phương. Thực vậy, các chiến lược xúc tiến địa phương trước đây và không bao lâu nữa sẽ được sử dụng trong những thị trường thay đổi nhanh chóng và trong tình hình cạnh tranh địa phương mới diễn ra. Trong hoàn cảnh này, sự phát triển của địa phương theo truyền thống tỏ ra không còn phù hợp nữa và do đó, dưới áp lực cạnh tranh, địa phương cần phải tạo ra giá trị gia tăng thúc đẩy sự năng động của nền kinh tế, phát triển nhân khẩu, gắn quy hoạch và kinh tế với hoạt động khuếch
trương địa phương phù hợp với nhu cầu khách hàng mục tiêu. Đó chính là tiếp cận marketing trong sự phát triển địa phương.
Trên cơ sở phân tích các quan điểm về phát triển kinh tế địa phương và căn cứ vào định hướng phát triển kinh tế - xã hội của TP. Cần Thơ. Trong luận án này, tác giả vận dụng quan điểm của Kotler et al. (2002) vào nghiên cứu về marketing địa phương nhằm thúc đẩy phát triển du lịch TP. Cần Thơ.
3.1.2 Lý thuyết về marketing địa phương
3.1.2.1 Khái niệm marketing địa phương
Có thể bạn quan tâm!
- Tóm Tắt Các Thành Phần Marketing Địa Phương Ảnh Hưởng Đến Ptdl
- Kinh Nghiệm Quốc Tế Và Trong Nước Về Vận Dụng Marketing Địa Phương Để Phát Triển Du Lịch
- Tổng Kết Kinh Nghiệm Quốc Tế Và Trong Nước
- Mối Quan Hệ Giữa Marketing Địa Phương Và Phát Triển Du Lịch
- Mô Hình Nghiên Cứu Chính Thức Và Các Giả Thuyết Nghiên Cứu
- Quy Trình Nghiên Cứu Của Đề Tài
Xem toàn bộ 264 trang tài liệu này.
Ngày nay, việc vận dụng khoa học marketing không chỉ dừng lại trong lĩnh vực hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp mà còn đang phát triển rộng rãi ở các lĩnh vực xã hội, đặc biệt là đối với địa phương. Nghiên cứu về marketing địa phương đã có nhiều cách tiếp cận. Ashworth and Voogd (1990) đã định nghĩa “Marketing địa phương là một quá trình theo đó các hoạt động địa phương phù hợp với nhu cầu của các khách hàng mục tiêu càng chặt chẽ càng tốt. Ý định là để tối đa hóa lợi ích xã hội và kinh tế của các khu vực có liên quan, phù hợp với các mục tiêu rộng rãi hơn đã được thiết lập”. Theo Kotler et al. (2002), “Marketing địa phương là việc thiết kế hình tượng của địa phương để thỏa mãn nhu cầu của những thị trường mục tiêu. Điều này thành công khi người dân và các doanh nghiệp sẵn lòng hợp tác với cộng đồng và sự mong chờ của những người du lịch và các nhà đầu tư”.
Ở Việt Nam, nghiên cứu của Hồ Đức Hùng và cộng sự (2005) khi đề cập đến marketing địa phương có thể xem một địa phương hay quốc gia cũng là một thương hiệu, gọi là “thương hiệu địa phương”. Với quan điểm này, xét về nguyên lý marketing thì marketing thương hiệu địa phương và marketing thương hiệu sản phẩm hữu hình hay dịch vụ không có gì khác nhau nhưng về mặt marketing cụ thể, chương trình marketing thương hiệu địa phương có những đặc trưng riêng của nó. Hoạt động marketing địa phương liên quan đến 3 nhóm đối tượng: (i) Khách hàng của một địa phương, (ii) Các yếu tố của địa phương để marketing cho khách hàng,
(iii) Các nhà hoạch định marketing địa phương. Một nghiên cứu khác của Nguyễn Văn Hiến và cộng sự (2015) đã chỉ ra rằng “Marketing địa phương là những hành động có chủ đích của chính quyền và con người trên một địa phương nhất định nhằm hiểu biết nhu cầu và mong muốn của khách hàng, từ đó tìm mọi cách thỏa mãn nhu cầu và mong muốn đó một cách ưu thế hơn so với địa phương khác. Đó chính là những chương trình, những công cụ marketing mà mỗi địa phương sử dụng nhằm chủ động tạo ra những sản phẩm địa phương có giá trị để thu hút sự chú ý và tiêu dùng của khách hàng”.
Như vậy, từ những khái niệm đã nêu trên, có thể rút ra một số vấn đề chủ yếu về lý luận mà địa phương cần xem xét khi ứng dụng marketing vào phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, bao gồm: (1) Khách hàng mục tiêu của địa phương là
những ai và nhu cầu của họ? (2) Các địa phương có những cách thức gì để marketing địa phương của mình? (3) Chủ thể thực hiện marketing địa phương gồm những thành phần nào? (4) Quy trình marketing địa phương được thực hiện ra sao?
3.1.2.2 Khách hàng mục tiêu của địa phương
Khách hàng của địa phương là những cá nhân hay tổ chức mà địa phương đó hướng các nỗ lực marketing vào để phục vụ. Kotler et al. (2002) đã xác định khách hàng mục tiêu của địa phương gồm 4 nhóm chủ yếu: các nhà đầu tư, khách du lịch, người lao động và các nhà xuất khẩu. Sở dĩ cần phải có sự phân đoạn thị trường như vậy là vì số lượng các dự án đầu tư còn ít, đặc biệt khi đề cập đến vấn đề thu hút các doanh nghiệp vào địa phương; sự cạnh tranh giữa các địa phương và hệ quả của nó dẫn đến sự cần thiết phải khác biệt hóa của cung địa phương; sự hạn chế về nguồn lực của địa phương, đặc biệt về khả năng thăm dò và đánh giá nguồn lực.
Nhà đầu tư
Đây là nhóm khách hàng được các địa phương quan tâm nhiều nhất, đặc biệt là ở những nước đang phát triển. Các địa phương tìm cách kêu gọi đầu tư, đặc biệt đầu tư trực tiếp nước ngoài nhằm tạo ra nhiều ngành nghề mới, việc làm, phát triển công nghệ, tăng trưởng kinh tế, tạo thu nhập cho người lao động và ngân sách. Khi xem xét một địa phương, nhà đầu tư thường quan tâm đến các vấn đề, như: chiến lược phát triển của địa phương, thị trường lao động, điều kiện và chi phí hoạt động, thuế, v.v… Đồng thời, các địa phương cũng sử dụng nhiều cách thức khác nhau để thu hút đầu tư, như: tổ chức các hội thảo về đầu tư, thành lập các tổ chức xúc tiến đầu tư, xây dựng và quảng bá các chính sách, chương trình khuyến khích đầu tư của địa phương.
Khách du lịch
Khách du lịch đến địa phương với nhiều mục đích khác nhau và có thể phân thành 2 nhóm chính: khách kinh doanh và không kinh doanh. Khách kinh doanh thường đến địa phương để tham gia các hội thảo kinh doanh, xem xét vị trí đầu tư, hoặc bán và mua một mặt hàng nào đó. Khách không kinh doanh, bao gồm khách du lịch thuần túy hay thăm gia đình, bạn bè. Các nhóm đối tượng này đã đem đến những lợi ích nhất định cho địa phương, như: thu nhập, việc làm thông qua hoạt động chi tiêu của họ trong quá trình lưu trú tại địa phương. Vì vậy, các địa phương cần có chiến lược thu hút khách du lịch thông qua các văn phòng xúc tiến du lịch, văn phòng xúc tiến hội thảo kinh doanh và nhiều hoạt động quảng bá những nét văn hóa đặc sắc, danh lam thắng cảnh nổi tiếng, di tích lịch sử nhằm phát trển ngành du lịch tại địa phương.
Người lao động
Các địa phương tìm cách thu hút những người lao động có các kỹ năng, nghề nghiệp mà địa phương cần, thường là những người có trình độ chuyên môn cao,
như: các nhà quản trị, nhà phát minh, nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học kỹ thuật khác nhau. Nếu một địa phương muốn thu hút một số nhóm ngành nghề cụ thể nào đó, họ có thể đưa ra những chính sách khuyến khích với nhiều lợi ích cho người lao động khi đến định cư tại địa phương đó.
Nhà xuất khẩu
Các nước đang phát triển thường tập trung vào chiến lược xuất khẩu đi liền với chiến lược thay thế hàng nhập khẩu. Kinh nghiệm thế giới cho thấy các chiến lược hướng nội cuối cùng cũng thất bại vì hầu như mang lại sản phẩm kém chất lượng, chi phí cao, nghèo đói hơn, người tiêu dùng gặp bất lợi. Vì vậy, mở rộng xuất khẩu được xem là phương cách để giảm nghèo đói cho những nước đang phát triển, tăng trưởng kinh tế cao hơn, giá thấp hơn và sản phẩm tốt hơn cho người tiêu dùng. Các địa phương tìm cách thúc đẩy xuất khẩu thông qua sử dụng một số công cụ, như: thiết lập văn phòng tư vấn xuất khẩu, các chính sách ưu đãi xuất khẩu, hỗ trợ những doanh nghiệp quan tâm đến xuất khẩu trong việc tìm kiếm thị trường xuất khẩu, thông tin về thị trường thế giới, tuyển nhân sự có kinh nghiệm.
3.1.2.3 Cách thức marketing địa phương
Theo Kotler et al. (2002), một địa phương đối diện với rất nhiều lựa chọn quan trọng khi thực hiện marketing địa phương và thường sử dụng phối hợp bốn cách thức: marketing hình tượng địa phương, marketing đặc trưng nổi bật của địa phương, marketing cơ sở hạ tầng địa phương, marketing con người của địa phương.
Marketing hình tượng địa phương, tạo nên hình tượng tốt đẹp, độc đáo và riêng biệt của địa phương, hoặc phát triển một khẩu hiệu thông minh, đáng tin cậy làm hấp dẫn khách hàng mục tiêu. Một hình tượng địa phương phải có giá trị, được thông tin theo nhiều cách và thông qua nhiều kênh nếu muốn tồn tại và thành công. Một địa địa phương có thể rơi vào một trong năm hình tượng sau: hình tượng quá hấp dẫn, hình tượng tích cực, hình tượng mờ nhạt, hình tượng trái ngược, và hình tượng tiêu cực. Vì vậy, marketing hình tượng đòi hỏi nghiên cứu về việc dân cư, du khách, doanh nghiệp trong và ngoài nước đang cảm nhận như thế nào về nơi đó.
Marketing đặc trưng nổi bật của địa phương, đầu tư vào các điểm nổi bật của địa phương. Các điểm nổi bật này có thể do thiên nhiên ưu đãi, lịch sử để lại, hay địa phương xây dựng nên. Chẳng hạn, địa phương xây dựng các trung tâm hội thảo, hội chợ với qui mô lớn và hiện đại thu hút số lượng lớn khách hội nghị và các nhà kinh doanh hàng năm.
Marketing cơ sở hạ tầng địa phương, hình ảnh cũng như sự hấp dẫn không thể đưa ra câu trả lời hoàn chỉnh cho sự phát triển của địa phương. Cơ sở hạ tầng hiệu quả mới là yêu cầu cơ bản, không chỉ cần thiết mà còn giúp cải thiện tình trạng thất nghiệp. Những mạng lưới giao thông đường bộ, đường cao tốc, đường sắt, sân
bay, đường thủy, bến cảng, thông tin liên lạc là cơ sở hạ tầng được cải thiện thường xuyên nhất.
Marketing con người của địa phương, những người thường được các nhà marketing địa phương marketing là những nhân vật nổi tiếng như ngôi sao điện ảnh, ngôi sao thể thao, các nhà lãnh đạo tâm huyết, doanh nhân thành đạt. Sự định cư của các nhân vật nổi tiếng này tại địa phương là minh chứng cho sự ưu việt của địa phương đó.
3.1.2.4 Chủ thể thực hiện marketing địa phương
Chủ thể thực hiện marketing địa phương là các tác nhân tham gia vào hoạt động marketing của địa phương đó, bao gồm: chính quyền địa phương, cộng đồng doanh nghiệp và công chúng địa phương (Kotler et al., 2002).
Chính quyền địa phương giữ vai trò rất quan trọng, không chỉ tác động mạnh mẽ đến các hoạt động động marketing địa phương mà còn định hướng chiến lược và quyết định sự phát triển của địa phương.
Cộng đồng doanh nghiệp thể hiện cho sự phát triển và sức mạnh của nền kinh tế địa phương. Nhóm chủ thể này giữ vai trò như tác nhân thực hiện chức năng quảng bá hình ảnh, tính hấp dẫn của địa phương, đồng thời thực hiện các hoạt động marketing địa phương theo kế hoạch mà địa phương đã soạn thảo.
Công chúng địa phương bao gồm các tổ chức đoàn thể, các Hiệp hội xã hội và cộng đồng dân cư có vai trò hỗ trợ để hoạt động marketing được vận hành dễ dàng, thuận lợi hơn.
3.1.2.5 Quy trình marketing địa phương
Ashworth and Voogd (1990) cho rằng mỗi địa phương có một số nguồn lực nhất định và thông qua những nguồn lực này mà sản phẩm địa phương và hình ảnh địa phương được bộc lộ. Dựa trên quan điểm đó, Ashworth and Voogd (1990) đề xuất quy trình marketing địa phương, gồm 04 bước: (1) Phân tích thị trường, (2) Thiết lập mục tiêu và hoạch định chiến lược, (3) Xác định marketing mix cho địa điểm, (4) Hoàn thiện và đánh giá.
Fretter (1993) đề xuất quy trình marketing địa phương, gồm 06 bước: (1) Tầm nhìn, (2) Hiểu biết địa phương, (3) Xác định khách hàng, (4) Thích ứng và cải tiến sản phẩm, (5) Hiểu biết đối thủ cạnh tranh, (6) Nhận thức được điểm khác biệt.
Kotler et al. (2002) dựa trên cách tiếp cận của marketing đối với hàng hóa, dịch vụ đã đưa ra quy trình marketing địa phương, gồm 05 bước: (1) Đánh giá hiện trạng của địa phương, (2) Xác định tầm nhìn và mục tiêu phát triển của địa phương,
(3) Thiết kế chiến lược marketing địa phương để đạt được mục tiêu đề ra, (4) Hoạch định chương trình thực hiện, (5) Tổ chức thực hiện và kiểm tra quá trình marketing.
Quy trình marketing là một cấu trúc thể hiện cách thức công việc được hoàn thành. Nó có khởi đầu, kết thúc và xác định rõ ràng các đầu vào và đầu ra. Theo đó, các tác giả Ashworth and Voogd (1990), Fretter (1993), Kotler et al. (2002) có cách tiếp cận khác nhau về quy trình marketing địa phương. Tuy nhiên, xem xét ở khía cạnh marketing, có thể nhận thấy rằng địa phương cũng là một thương hiệu, thương hiệu địa phương hay thương hiệu sản phẩm, dịch vụ đều có những đặc trưng cơ bản giống nhau và có những đặc thù riêng. Do đó, quy trình marketing thương hiệu địa phương cũng tương tự như quy trình marketing thương hiệu sản phẩm. Với cách tiếp cận đó, quy trình marketing địa phương của Kotker et al. (2002) thể hiện được đầy đủ các nội dung trong tiến hình xây dựng chiến lược marketing địa phương. Vì vậy, trong đề tài này, tác giả vận dụng lý thuyết quy trình marketing địa phương của Kotker et al. (2002) làm cơ sở xây dựng chiến lược marketing địa phương đối với lĩnh vực phát triển du lịch của thành phố Cần Thơ.
Nội dung chi tiết các bước trong quy trình marketing địa phương của Kotker
et al. (2002), cụ thể như sau:
(i) Đánh giá hiện trạng của địa phương
Công việc đầu tiên để hoạch định chiến lược marketing địa phương là đánh giá tình hình hiện tại của địa phương đó, bao gồm các bước: Thiết lập các đặc trưng hấp dẫn của địa phương; Nhận dạng đối thủ cạnh tranh; Nhận dạng xu hướng phát triển, Phân tích SWOT để xác định những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, nguy cơ đối với địa phương; Xác định những vấn đề cốt lõi của địa phương cần giải quyết.
Các đặc trưng về điều kiện tự nhiên, kinh tế, cơ sở hạ tầng, văn hóa - xã hội, cơ chế, chính sách, nguồn nhân lực, v.v…là những yếu tố cơ bản nhất được các nhà marketing địa phương đánh giá trước tiên để tìm ra các đặc trưng hấp dẫn của địa phương. Bên cạnh đó, tại bước này, các nhà marketing địa phương cũng cần phải hệ thống hóa lại tất cả các hoạt động marketing địa phương đã được thực hiện và các kết quả đã đạt được từ những hoạt động đó.
Bước tiếp theo, các nhà marketing địa phương xác định các đối thủ cạnh tranh chính trong từng lĩnh vực cụ thể mà địa phương muốn theo đuổi. Do vậy, phân tích đối thủ cạnh tranh nhằm gia tăng sự hiểu biết về họ là việc làm hết sức cần thiết đối với mỗi địa phương, giúp địa phương có thể so sánh một cách chính xác năng lực và đánh giá được triển vọng thành công giữa các địa phương. Tuy nhiên, cạnh tranh và hợp tác luôn gắn liền với nhau, hai địa phương có thể là đối thủ cạnh tranh nhưng cũng có thể là đối tác với nhau.
Kế tiếp, nhà marketing địa phương phải xác định xu hướng phát triển chính trên thế giới, khu vực và các địa phương lân cận. Chẳng hạn như tác động của xu hướng toàn cầu hóa, xu hướng chặt chẽ hơn về môi trường, xu hướng phát triển của
công nghệ thông tin, v.v… Các xu hướng này có thể tạo ra cơ hội cho địa phương này nhưng cũng có thể là thách thức cho địa phương khác.
Trên cơ sở những nội dung đã đánh giá, nhà marketing địa phương tiến hành phân tích SWOT, nghĩa là phân tích những điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội, nguy cơ của địa phương, từ đó nhận dạng được những vấn đề của địa phương cần giải quyết.
(ii) Xác định tầm nhìn và mục tiêu phát triển của địa phương
Các nhà hoạch định cần phải xem xét những vấn đề mà người dân của địa phương mong muốn sẽ nhìn thấy trong tương lai. Dân cư địa phương đóng vai trò rất quan trọng trong việc xác định tầm nhìn và mục tiêu phát triển của địa phương. Vì vậy, khi xây dựng tầm nhìn, nhà marketing địa phương cần phải xem xét một cách tổng thể nhiều yếu tố, bao gồm: sự phối hợp các đặc trưng hấp dẫn, thị trường mục tiêu của địa phương, các mục tiêu ngắn hạn cũng như dài hạn mà địa phương theo đuổi, và các tiền đề đòi hỏi cho tầm nhìn. Bên cạnh đó, các mục tiêu marketing địa phương được xác lập cũng phải đảm bảo sự hài hòa giữa giá trị lợi ích kinh tế và giá trị lợi ích xã hội. Việc xác lập mục tiêu phát triển cần thông qua ý kiến của toàn dân và cộng đồng doanh nghiệp địa phương.
(iii) Thiết kế chiến lược marketing địa phương
Khi thiết kế chiến lược marketing địa phương, nhà marketing cần chú ý hai vấn đề: Một là, phải xem xét những lợi thế nào mà địa phương có được để có thể thực hiện thành công chiến lược đó; Hai là, địa phương có đủ nguồn lực để thực hiện thành công chiến lược đề ra hay không.
Một vấn đề mang tính chiến lược ở bước này mà nhà marketing địa phương cần phải chú tâm thực hiện là xây dựng và quảng bá hình tượng của địa phương đến với thị trường mục tiêu. Tuy nhiên, những nhóm khách hàng khác nhau sẽ có những ấn tượng về địa phương khác nhau. Chính vì vậy, các nhà marketing địa phương cần phải thực hiện phân khúc thị trường để lựa chọn thị trường mục tiêu cho địa phương cũng như định vị địa phương; theo đó, địa phương xác lập hình tượng, thuộc tính hấp dẫn, riêng có của địa phương đối với thị trường mục tiêu.
Một khi đã xây dựng được hình tượng của địa phương, các nhà marketing thường phối hợp thực hiện các công cụ marketing địa phương, còn gọi là marketing
- mix địa phương nhằm đạt được kết quả mong muốn như mục tiêu đã đề ra.
(iv) Hoạch định chương trình thực hiện
Chương trình thực hiện chiến lược marketing địa phương cần phải cụ thể và rõ ràng. Các công việc cụ thể cần được thể hiện theo trình tự, chi tiết và xác định rõ ràng thời gian thực hiện, những người có trách nhiệm thực hiện và ngân sách cần thiết cho các hoạt động marketing.
(v) Tổ chức thực hiện và kiểm tra
Một địa phương thành công khi các nhà marketing thiết kế chiến lược marketing và chương trình thực hiện phù hợp, cũng như thực hiện được quá trình marketing địa phương một cách có hiệu quả. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện marketing địa phương chắc chắn có nhiều yếu tố đột xuất ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện và mức độ thành công của các chương trình marketing. Vì vậy, kiểm tra và đánh giá là bước quan trọng trong tiến trình thực hiện marketing địa phương. Các kết quả thu thập được cần phải phân tích, đánh giá theo từng năm để tìm ra nguyên nhân và có phương án điều chỉnh kịp thời.
3.1.3 Lý thuyết về du lịch và phát triển du lịch
3.1.3.1 Khái niệm du lịch
Du lịch là sản phẩm của sự phát triển kinh tế - xã hội. Theo đó, nhịp sống ngày càng sôi động, con người càng cần sự nghỉ ngơi, thư giãn nên việc du lịch trở thành nhu cầu cần thiết của xã hội.
Theo Tổ chức du lịch thế giới (2007), “Du lịch là các hoạt động của con người liên quan đến việc dịch chuyển tạm thời đến một điểm đến nào đó bên ngoài nơi họ sống, làm việc thường xuyên nhằm mục đích giải trí và các mục đích khác”.
Theo Luật Du lịch Việt Nam (2017), “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá một năm liên tục nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”.
Như vậy, du lịch là hoạt động xã hội của con người hướng đến nhu cầu hưởng thụ và phát triển, là một bộ phận trong sinh hoạt văn hóa của con người nhằm tìm hiểu những giá trị mới, mở mang kiến thức và góp phần hoàn thiện nhân cách bản thân.
3.1.3.2 Phân loại du lịch
Sở thích, thị hiếu và nhu cầu của khách du lịch rất đa dạng, phong phú. Dựa theo các tiêu thức khác nhau có thể phân loại du lịch thành các loại hình du lịch khác nhau. Căn cứ theo mục đích chuyến đi, Trần Thị Thúy Lan và Nguyễn Đình Quang (2005) phân loại du lịch thành những loại hình sau:
Du lịch thiên nhiên: là loại hình du lịch thu hút những người thích tận hưởng bầu không khí ngoài trời, thích thưởng thức phong cảnh đẹp và đời sống động, thực vật hoang dã. Những người đi du lịch trong nhóm này muốn tìm đến vẻ đẹp và đời sống hoang sơ, hùng vĩ của rừng, núi, làng xóm.
Du lịch văn hóa: là loại hình du lịch hấp dẫn những người mà mối quan tâm chủ yếu của họ là truyền thống lịch sử, phong tục tập quán, văn hóa nghệ thuật của nơi đến. Những người đi du lịch với mục đích này sẽ viếng thăm các viện bảo tàng,