Đặc Điểm Áp Dụng Pháp Luật Của Tand Trong Giải Quyết Án Hn&gđ

tiền hành một số hoạt động pháp luật cấm như không đảm bảo tính khách quan trong việc lựa chọn thẩm phán, nói xấu đương sự tại phiên tòa…); thi hành pháp luật (Tòa án tiến hành đầy đủ các quy trình để giải quyết một vụ án HN&GĐ từ thụ lý, điều tra, đưa vụ án ra xét xử, thi hành bản án trên thực tế...); sử dụng pháp luật (Tòa án sử dụng quyền của mình để triệu tập đương sự lấy lời khai, kê biên tài sản, định giá tài sản…).

Trong tổ chức Bộ máy nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các chủ thể có thẩm quyền áp dụng pháp luật được quy định rất phong phú, đa đạng trong đó có TAND các cấp. Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền xét xử, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 đã quy định: “TAND là cơ quan xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp”[26].

ADPL là một trong những hình thức thực hiện pháp luật và là hình thức thực hiện pháp luật có sự can thiệp của nhà nước. ADPL của TAND trong giải quyết án HN&GĐ thường được thực hiện trong các trường hợp sau:

Thứ nhất, khi cần truy cứu trách nhiệm pháp lý đối với những chủ thể vi phạm pháp luật HN&GĐ hoặc áp dụng các biện pháp tác động khác không liên quan đến vi phạm pháp luật. Chẳng hạn khi cần cưỡng chế một hình phạt tù đối với kẻ thực hiện hành vi phạm tội như đánh đập, làm nhục vợ con… hay như trong trường hợp bản án HN&GĐ buộc người chồng phải có nghĩa vụ cấp dưỡng, nhưng họ đã không thực hiện và khi người vợ có đơn yêu cầu thi hành án, thì cơ quan Thi hành án buộc người chồng phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng như nội dung trong bản án đã có hiệu lực quy định.

Thứ hai, khi quyền và nghĩa vụ pháp lý của chủ thể không mặc nhiên phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt nếu thiếu sự can thiệp của Nhà nước. Chẳng hạn như nam nữ muốn xác lập quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn ở Uỷ ban nhân dân, muốn chấm dứt quan hệ vợ chồng thì phải có quyết

định ly hôn của Tòa án, cha mẹ nếu không muốn nhận con thì phải có chứng cứ và được Tòa án xác nhận…

Thứ ba, khi xảy ra tranh chấp về quyền chủ thể và nghĩa vụ pháp lý giữa các bên tham gia quan hệ pháp luật mà các bên không tự giải quyết được. Chẳng hạn như không thống nhất được việc chia tài sản hoặc giao con cho một bên trực tiếp nuôi dưỡng khi vợ chồng ly hôn, không thống nhất được số tiền cấp dưỡng cho con sau khi cha mẹ ly hôn…

Thứ tư, trong một số quan hệ pháp luật mà Nhà nước thấy cần thiết phải tham gia kiểm tra, giám sát hoạt động của các bên tham gia vào quan hệ đó hoặc Nhà nước xác nhận sự tồn tại hay không tồn tại của một số sự việc, sự kiện thực tế. Ví dụ: Việc xác nhận mất tích hoặc đã chết để người còn lại có điều kiện kết hôn; việc xác nhận giấy chứng nhận đăng ký kết hôn của các đương sự…

Trong quá trình xét xử tòa án phải ADPL để giải quyết các vụ án. Đối với các vụ án HN&GĐ, tòa án phải ADPL để giải quyết từ khâu phân loại đơn, thụ lý đơn, điều tra, thu thập chứng cứ, xác minh, định giá tài sản… cho đến khi đưa vụ án ra xét xử và tùy từng vụ án cụ thể mà phân loại giải quyết khác nhau. Trình tự các bước giải quyết này phải tuân theo BLTTDS nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2004. Theo quy định khi đương sự gửi đơn đề nghị giải quyết vụ án HN&GĐ đến TAND cấp có thẩm quyền giải quyết, sau khi nhận đơn tòa án tiến hành phân loại và thụ lý giải quyết theo trình tự tố tụng, như điều tra thu thập chứng cứ vụ án, lựa chọn QPPL áp dụng, ra các quyết định hoặc ra bản án buộc các đương sự thi hành bằng nhiều hình thức như tự nguyện thi hành hoặc có sự cưỡng chế thi hành của cơ quan thi hành án dân sự.

Xuất phát từ sự đa dạng, phong phú, phức tạp trong quan hệ HN&GĐ nên vụ án HN&GĐ cũng bao gồm nhiều loại tranh chấp khác nhau, quá trình

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

giải quyết các vụ án HN&GĐ của TAND chính là quá trình ADPL vào từng quan hệ HN&GĐ cụ thể để đưa ra các phán quyết về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ pháp luật. Do vậy, từ khái niệm vụ án HN&GĐ và khái niệm ADPL như đã phân tích ở trên, ta có thể hiểu ADPL của TAND trong giải quyết án HN&GĐ là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, được thực hiện bởi TAND theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ mà pháp luật tố tụng dân sự quy định, nhằm tạo ra những bản án, quyết định làm phát sinh, thay đổi, đình chỉ hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật HN&GĐ.

1.1.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật của TAND trong giải quyết án HN&GĐ

Áp dụng pháp luật của Tòa án nhân dân trong giải quyết án hôn nhân và gia đình qua thực tiễn tỉnh Thái Nguyên - 3

Áp dụng pháp luật nói chung là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước. Áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN&GĐ có những đặc điểm chung của áp dụng pháp luật, ngoài ra do đặc thù về đối tượng áp dụng là quan hệ HN&GĐ nên có những đặc điểm riêng sau:

Áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN&GĐ chỉ do cơ quan nhà nước có thẩm quyền tiến hành, đó chính là hệ thống TAND. Cụ thể ở đây là Thẩm phán, cán bộ TAND được nhà nước giao nhiệm vụ giải quyết các vụ án về hôn nhân và gia đình nói chung. Hoạt động áp dụng pháp luật của TAND trong giải quyết án HN&GĐ phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục chặt chẽ. Từ giai đoạn nhận đơn, thụ lý đơn, hòa giải, ra quyết định hay bản án đều phải theo đúng quy định của BLTTDS, BLDS, Luật HN&GĐ và các văn bản hướng dẫn thi hành. Tòa áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN&GĐ cũng chính là thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình. Và theo quy định của pháp luật, hiện nay chỉ có Tòa án mới được nhà nước trao quyền để lựa chọn các QPPL và ADPL trong giải quyết án HN&GĐ.

Thông thường, các vụ án HN&GĐ luôn kéo theo nhiều hệ lụy xấu, ảnh hưởng đến nhiều thành viên trong gia đình nói riêng và xã hội nói chung. Vì vậy, ở mỗi giai đoạn phát triển của đất nước, tùy theo yêu cầu

của tình hình thực tế và chính sách của Đảng và Nhà nước mà việc áp dụng pháp luật của TAND trong giải quyết án HN&GĐ phải phù hợp với chủ trương, đường lối đó.

Ta thấy rằng hoạt động áp dụng pháp luật thường được tiến hành theo ý chí đơn phương của chủ thể áp dụng. Tuy nhiên, đối với hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN&GĐ do mang tính đặc thù riêng nên pháp luật thường tôn trọng và lắng nghe tâm tư nguyện vọng của các bên chủ thể. Và thường ghi nhận những sự thỏa thuận tự nguyện không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội của các bên.

Hoạt động áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN&GĐ của TAND đòi hỏi phải tuân theo những trình tự, thủ tục chặt chẽ. Điều này được thể hiện rò trong quy định của pháp luật tố tụng dân sự. Từ khâu nhận đơn, xử lý đơn, thụ lý vụ án và giải quyết đều phải tuân theo những quy định về thời hạn, thời hiệu và những yêu cầu cụ thể khác như: cung cấp tài liệu, chứng cứ, bổ sung các giấy tờ cần thiết theo yêu cầu của tòa án. Trong đó nếu các bên đương sự không thực hiện đúng theo quy định của pháp luật thì Tòa án có thể trả đơn (nếu chưa thụ lý) hoặc đình chỉ giải quyết vụ án. Ví dụ như trường hợp hết thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận giấy báo nộp tiền tạm ứng án phí mà đương sự không nộp biên lai thu tiền cho Tòa án thì Tòa án sẽ trả lại đơn cho người khởi kiện. Hay nguyên đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do thì Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.

Đặc biệt áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN&GĐ phải là một hoạt động mang tính khoa học và sáng tạo do thẩm phán và HĐXX thực hiện. Bởi vì các quy định của pháp luật trong giải quyết án HN&GĐ mang tính chất chung chung, khái quát, song các trường hợp cụ thể trên thực tế lại rất đa dạng, phong phú, muôn hình vạn trạng. Thêm vào đó, có những mối quan hệ

xã hội mà khi xây dựng luật các nhà làm luật không thể dự liệu hết được nên đòi hỏi mỗi Thẩm phán khi giải quyết từng vụ án HN&GĐ phải nhìn nhận, xem xét đánh giá đúng bản chất của mối quan hệ hôn nhân để có thể đưa ra phán quyết đúng đắn, đảm bảo quyền lợi của vợ chồng và các thành viên khác trong gia đình. Đồng thời, người thẩm phán trong quá trình xây dựng hồ sơ vụ án HN&GĐ, nghiên cứu hồ sơ cần phải làm rò các giả thiết, tiến hành thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ và kết luận về giá trị chân thực của chứng cứ trên cơ sở đó để vận dụng sáng tạo việc áp dụng tập quán hoặc ADPL tương tự để giải quyết vụ án HN&GĐ, đảm bảo quyền lợi, sự công bằng của các bên đương sự.

1.2. Quy trình và nội dung áp dụng pháp luật trong giải quyết án hôn nhân và gia đình

Theo từ điển tiếng Việt “Quy trình là các bước, trình tự phải tuân theo khi tiến hành công việc nào đó”[45, tr.213]. Áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN&GĐ nói riêng của TAND, là sự biểu hiện cụ thể của ADPL nói chung. Do tính đa dạng của tranh chấp về HN&GĐ như một bên kiên quyết ly hôn, một bên kiên quyết đoàn tụ, tranh chấp về con hoặc tranh chấp về tài sản trong hôn nhân, tranh chấp về vấn đề cấp dưỡng sau hôn nhân… cùng những quy định về thủ tục tố tụng khi giải quyết các vụ án do pháp luật quy định, bởi vậy, “quy trình ADPL trong giải quyết các vụ án HN&GĐ của TAND là trình tự, thủ tục tiến hành các hoạt động có mối quan hệ hữu cơ, thống nhất với nhau do Thẩm phán, HTND của TAND thực hiện nhằm hiện thực hóa nội dung các quy định pháp luật trong đời sống khi giải quyết vụ án HN&GĐ cụ thể”[16, tr.43].

Căn cứ vào lý luận chung về quy trình ADPL cũng như đặc điểm của ADPL trong giải quyết các vụ án HN&GĐ, có thể chia quy trình ADPL trong giải quyết các vụ án HN&GĐ của TAND thành những giai đoạn sau đây:

Thứ nhất, hoạt động áp dụng pháp luật trong thụ lý, điều tra, đình chỉ và tạm đình chỉ vụ án:

- Thụ lý vụ án:

Cá nhân, cơ quan, tổ chức do BLTTDS quy định có quyền khởi kiện về việc HN&GĐ, yêu cầu tòa án có thẩm quyền giải quyết. Theo quy định của pháp luật Việt Nam những tranh chấp và những yêu cầu về HN&GĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án bao gồm:

+ Ly hôn, tranh chấp về con nuôi, chia tài sản khi ly hôn.

+ Tranh chấp về tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

+ Tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

+ Tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha mẹ.

+ Tranh chấp về cấp dưỡng.

+ Yêu cầu hủy việc kết hôn trái phép.

+ Yêu cầu công nhân thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn.

+ Yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau khi ly hôn.

+ Yêu cầu hạn chế quyền của cha mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau khi ly hôn.

+ Yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi.

+ Yêu cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam.

+ Các tranh chấp khác và những yêu cầu khác về HN&GĐ mà pháp luật có quy định.

Đây là giai đoạn đầu tiên của quy trình áp dụng pháp luật trong giải quyết án HN&GĐ nên nó có vai trò rất quan trọng. Khi nhận được đơn khởi kiện của các cá nhân, tổ chức, TAND phải tiến hành các hoạt động cần thiết để xác định xem tranh chấp phát sinh thuộc loại tranh chấp gì trong các tranh chấp về HN&GĐ, chủ thể quan hệ pháp luật HN&GĐ là ai? Năng lực chủ thể

như thế nào? Người khởi kiện có quyền khởi kiện hay không? Sự việc đó có thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND không?... Do vậy, sau khi nhận được đơn khởi kiện và những chứng cứ kèm theo, nếu xét thấy vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án thì thông báo cho người khởi kiện biết để họ nộp tiền tạm ứng án phí. Trong thời hạn nhất định kể từ ngày nhận được giấy báo của tòa án về việc tiền tạm ứng án phí, người khởi kiện phải nộp tiền tạm ứng án phí. Tòa án sẽ thụ lý vụ án khi người khởi kiện nộp cho tòa án biên lai tạm thu tiền án phí. Nếu trường hợp được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí thì tòa án phải thụ lý khi nhận được đơn khởi kiện và tài liệu, chứng cứ kèm theo, nếu có.

Như vậy, khi thụ lý đơn để giải quyết vụ án, nếu vụ án HN&GĐ thuộc thẩm quyền giải quyết của TAND về loại việc, về lãnh thổ, về cấp xét xử thì tiến hành thủ tục thụ lý vụ án, ra thông báo thụ lý vụ án gửi cho Viện kiểm sát, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Đồng thời, tòa án phải thụ lý theo đúng thời hạn được quy định trong BLTTDS.

- Điều tra vụ án:

Đối với vụ án HN&GĐ, quá trình điều tra vụ án thuộc trách nhiệm của tòa án, Chánh án sẽ phân công cho một thẩm phán trực tiếp giải quyết vụ án. Thẩm phán phải xem xét tính có căn cứ và tính hợp pháp trong yêu cầu khởi kiện, trong các lời khai, tài liệu, chứng cứ mà nguyên đơn xuất trình...cũng như nghiên cứu, xem xét các tài liệu, chứng cứ do phía bị đơn cung cấp nhằm làm sáng tỏ lý lẽ, chứng cứ phản bác yêu cầu của nguyên đơn có hay không có; mức độ chứng minh và độ tin cậy của các tài liệu chứng cứ do bị đơn xuất trình như thế nào...Bởi vậy, việc thu thập được chứng cứ đầy đủ, khách quan có ý nghĩa rất quan trọng để tòa án có thể phán quyết chính xác và đúng pháp luật. Ngoại trừ có những trường hợp không nhất thiết phải thu thập chứng cứ, như trong quá trình giải quyết vụ án các đương sự thỏa thuận được toàn bộ

các vấn đề thì tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự mà không phải tiến hành các biện pháp thu thập chứng cứ. Còn lại, trong hoạt động của mình, đòi hỏi thẩm phán phải thận trọng khi thu thập chứng cứ như tuân theo các bước chủ yếu sau đây:

+ Thẩm phán tiến hành lấy lời khai của đương sự theo Điều 86 BLTTDS. Chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc nội dung bản khai chưa đầy đủ, rò ràng, đương sự phải tự viết bản khai và ký tên của mình. Trong trường hợp đương sự không thể tự viết được thì thẩm phán lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai có thể thực hiện tại trụ sở hoặc ngoài trụ sở tòa án. Sau khi ghi xong, biên bản ghi lời khai phải được người khai tự đọc hay nghe đọc lại và ký tên hoặc điểm chỉ.

Từ kết quả lấy lời khai nếu thấy có mâu thuẫn thì tiến hành cho đối chất giữa các đương sự với nhau nhằm làm sáng tỏ những vấn đề mâu thuẫn, việc đối chất phải được ghi lại thành biên bản có chữ ký của những người tham gia đối chất.

+ Tiến hành điều tra, xác minh, trong những trường hợp cần thiết tòa án tiến hành đến tổ dân phố, ủy ban nhân dân, cơ quan, đơn vị công tác hoặc nơi cư trú của đương sự để xác minh nhằm làm rò những vấn đề liên quan đến vụ án. Song song với việc lấy lời khai như trên thì cũng tiến hành thu thập các tài liệu liên quan khác như: Giấy đăng ký kết hôn, bản sao giấy khai sinh các con, các giấy tờ có ý nghĩa chứng minh về tài sản, các giấy vay nợ, giấy cho vay, các giấy tờ về nhà đất và các giấy tờ khác có liên quan đến vụ án...

+ Định giá tài sản: Tài sản của các bên đương sự có tranh chấp về giá, tòa án quyết định thành lập hội đồng định giá và tùy thuộc vào loại tài sản cần định giá mà tiến hành mời các thành viên hội đồng định giá cho phù hợp.

+ Trường hợp những chứng cứ thu thập ở nơi xa, tòa án có thể ra quyết định ủy thác để tòa án nơi khác hoặc cơ quan có thẩm quyền lấy lời

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 26/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí