Quy Định Văn Bản Thỏa Thuận Chia Tài Sản Chung Phải Công Chứng Hoặc Được Tòa Án Công Nhận

1986. Theo đó, việc chia tài sản chung trong trường hợp này được chia như khi ly hôn. Tuy nhiên, chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân mang một số nét đặc thù so với chia tài sản chung khi ly hôn ở chỗ: thứ nhất, về quan hệ tài sản, trong thời kỳ hôn nhân, tùy theo từng lý do, mục đích mà vợ chồng có thể chỉ chia một phần tài sản thay vì chia toàn bộ tài sản chung như khi ly hôn; điều này có nghĩa là bên cạnh việc mỗi người đều có tài sản riêng, thì sau khi chia, giữa họ vẫn còn tồn tại một khối tài sản chung, nó khác hẳn với việc chấm dứt hoàn toàn quan hệ tài sản chung trong trường hợp chia tài sản khi ly hôn; thứ hai, về quan hệ nhân thân, sau khi ly hôn, vợ chồng không còn tiếp tục chung sống, các nghĩa vụ chung giữa hai vợ chồng về nguyên tắc sẽ chấm dứt, trong khi đó, đối với việc chia tài sản sản trong thời kỳ hôn nhân, sau khi chia vợ chồng vẫn tiếp tục duy trì quan hệ hôn nhân, các nghĩa vụ chung giữa hai vợ chồng vẫn tiếp tục được thực hiện… Sự khác biệt cả về mặt quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa hai chế định nói trên khiến cho việc vận dụng nguyên tắc chia tài sản khi ly hôn vào việc chia tài sản khi vợ chồng vẫn tồn tại quan hệ hôn nhân trở nên khiên cưỡng và không hợp lý. Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần thiết phải có những quy định cụ thể và hợp lý hơn về nguyên tắc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân, tạo cơ cơ pháp lý để các Tòa áp dụng thống nhất, từ đó bảo vệ tốt hơn lợi ích của vợ, chồng và lợi ích chung của gia đình. Theo chúng tôi, nguyên tắc chia có thể được giải quyết theo hướng: Nếu vợ chồng không thỏa thuận được thì có thể yêu cầu Tòa án giải quyết. Tòa án căn cứ vào lý do, mục đích chia tài sản chung để quyết định phạm vi tài sản chung được chia. Sau khi xác định phạm vi tài sản chung được chia (chia một phần hay chia hết), thì việc chia có thể áp dụng theo các nguyên tắc chia tài sản chung khi ly hôn. Như thế, trước khi tiến hành chia tài sản chung, Tòa án sẽ thực hiện một bước hết sức quan trọng (và bước này phải trở thành nguyên tắc) đó là xác định những tài sản nào sẽ được chia sao cho phù hợp. Sau khi xác định hợp lý những tài sản đem chia, thì việc chia cụ thể sẽ áp dụng theo nguyên tắc chia đôi tài sản chung nhưng có xem xét công sức đóng góp, hoàn cảnh của mỗi bên…giống như nguyên tắc chia tài sản chung khi ly hôn.

3.1.1.5. Quy định văn bản thỏa thuận chia tài sản chung phải công chứng hoặc được Tòa án công nhận

Đây không phải là quy định hạn chế quyền chia tài sản chung của vợ chồng mà là quy định nhằm kiểm soát hiệu quả thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng nhằm bảo vệ quyền, lợi ích không chỉ của vợ, chồng mà còn cả của những người liên quan. Thông thường, người tiến hành các giao dịch tài sản với vợ chồng có thể "ước lượng" được những tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng thông qua những căn cứ xác định tài sản chung quy định tại Điều 27 và các quy định liên quan của Luật HN&GĐ năm 2000 nhưng nếu vợ chồng đã chia tài sản chung thì rất khó xác định vì sau khi chia hầu hết các căn cứ xác định tài sản chung đã bị đảo lộn. Đặc biệt nếu vợ chồng lại "lặng lẽ" thỏa thuận chia tài sản chung mà không có bất cứ cơ chế kiểm soát nào đối với sự biến động về mặt sở hữu khối tài sản đó thì rất có thể quyền lợi của người thứ ba sẽ bị ảnh hưởng, vì khi có tranh chấp thì cơ sở để xác định tài sản đó là tài sản chung hay tài sản riêng của vợ, chồng lại hoàn toàn phụ thuộc vào lời khai và bằng chứng chia tài sản mà vợ chồng đưa ra. Bởi vậy, pháp luật cần có quy định để kiểm soát một cách hiệu quả thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng, bảo vệ lợi ích của người thứ ba.

Về vấn đề này, chúng ta có thể tham khảo thêm quy định của Cộng hòa Pháp. BLDS Pháp quy định việc tách riêng tài sản giữa vợ và chồng phải được thực hiện bằng bản án của Tòa án "mọi trường hợp tự tách riêng tài sản đều vô hiệu" [27, Điều 1443]. Ngoài ra, BLDS này còn quy định rõ trách nhiệm công bố bản án tách riêng tài sản theo quy định tương ứng của pháp luật có liên quan như Bộ luật tố tụng dân sự, pháp luật về thương mại, đồng thời ghi chú bên lề giấy đăng ký kết hôn và bản chính của khế ước hôn nhân (Điều 1445BLDS Pháp). Trong điều kiện nước ta, giải pháp công chứng văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng bên cạnh quyết định công nhận của Tòa án có thể là giải pháp hợp lý nhằm giảm bớt "gánh nặng" cho Tòa án. Đồng thời, do thói quen của người Việt Nam, khi tiến hành giao dịch hoặc thực hiện các thủ tục liên quan đến vợ chồng thường không yêu cầu vợ chồng phải xuất trình giấy đăng ký kết hôn (trừ một số thủ tục hành chính liên quan

đến nhân thân của vợ chồng) nên giải pháp ghi chú bên lề giấy đăng ký kết hôn việc vợ chồng đã chia tài sản chung sẽ không phát huy hiệu quả. Vì vậy, Nhà làm luật cần quy định trách nhiệm thông báo của vợ, chồng đối với người xác lập giao dịch với mình về việc vợ chồng đã chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân. Khi có tranh chấp phát sinh, văn bản lưu giữ lại các cơ quan công chứng hoặc Tòa án sẽ là bằng chứng chính xác về việc tồn tại một thỏa thuận cũng như các điều khoản trong văn bản thỏa thuận chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân.

3.1.1.6. Bổ sung thêm quy định về hậu quả pháp lý của chế định chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Với những quy định về hậu quả chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân được quy định tại Điều 30 Luật HN&GĐ năm 2000 và Điều 8 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP, cùng với việc "bỏ ngỏ" trách nhiệm của vợ chồng đối với việc duy trì đời sống gia đình sau khi chia tài sản chung như đã phân tích tại mục 2.3 chương 2 luận văn, thực tiễn đang đặt ra yêu cầu phải sửa đổi pháp luật để có một quy định chặt chẽ và hợp lý hơn nhằm bảo vệ lợi ích chung của gia đình, trong đó quan trọng nhất là lợi ích của các con. Theo một số chuyên gia trong lĩnh vực Luật HN&GĐ thì pháp luật nên quy định hậu quả pháp lý của việc chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân theo hướng:

Tài sản mà vợ chồng có được sau khi chia tài sản chung do được thừa kế chung, tặng cho chung là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp người để lại tài sản thừa kế, người tặng cho tài sản đã có sự phân định rõ quyền của mỗi bên vợ, chồng trong khối tài sản đó. Thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của mỗi bên sau khi chia tài sản chung là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ chồng có thỏa thuận khác [21].

Chúng tôi nhất trí với hướng đề xuất trên bởi nó phù hợp cả về mặt lý luận và thực tiễn, khắc phục được những bất cập hiện nay của pháp luật.

Về trách nhiệm của vợ chồng trong việc nuôi dạy con cái cũng như duy trì cuộc sống gia đình, chúng ta có thể tham khảo kinh nghiệm của pháp luật Pháp. BLDS Pháp quy định: "vợ hoặc chồng đã được tách riêng tài sản có trách nhiệm đóng góp các chi phí cho gia đình và cho việc nuôi dạy con theo khả năng của mình và của người kia " [27, Điều 1448]. Luật Việt Nam có thể quy định điều khoản trách nhiệm đóng góp các khoản chi tiêu cho gia đình của vợ chồng sau khi chia tài sản chung là một trong những điều khoản bắt buộc trong văn bản thỏa thuận chia tài sản chung. Nếu việc chia tài sản chung được giải quyết tại Tòa án thì trên cơ sở nhu cầu thực tế của gia đình và khả năng kinh tế của mỗi bên Tòa án sẽ quyết định mức đóng góp chi tiêu cho gia đình cho phù hợp.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.

Bên cạnh đó, vấn đề khôi phục chế độ tài sản chung cần được luật hóa để đảm bảo tính thống nhất và nâng cao hiệu lực pháp lý của các quy định về hậu quả pháp lý của chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Trên cơ sở quy định mang tính nguyên tắc chung về khôi phục chế độ tài sản chung được luật quy định, nghị định hoặc văn bản dưới luật khác mới quy định chi tiết, hướng dẫn cụ thể. Đồng thời, bổ sung quy định về khôi phục chế độ tài sản chung trong trường hợp vợ chồng chia tài sản chung theo quyết định của Tòa án để tạo cơ sở pháp lý cho việc tuân thủ và áp dụng pháp luật của vợ chồng, Tòa án. Trong trường hợp này, theo chúng tôi, pháp luật nên quy định bổ sung Khoản 4 vào Điều 10 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP với nội dung như sau: Trong trường hợp Tòa án cho chia tài sản chung theo quy định tại Khoản 3 Điều 6 Nghị định này, thì văn bản thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung cũng phải được Tòa án công nhận và có hiệu lực kể từ ngày quyết định của Tòa án công nhận thỏa thuận khôi phục chế độ tài sản chung của vợ chồng có hiệu lực pháp luật.

3.1.1.7. Quy định cụ thể về thuế, lệ phí liên quan đến tài sản được chia khi vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân

Chia tài sản chung vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - Thực tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện - 14

Pháp luật đã ghi nhận quyền được chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân của vợ chồng thì cũng cần có những quy định đồng bộ để đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ chồng sau khi chia tài sản chung. Hiện nay,

ngoài quy định tại Khoản 1 Điều 680 BLDS năm 2005 quy định quyền thừa kế của vợ, chồng khi đã chia tài sản chung khi hôn nhân còn tồn tại thì hầu như các luật cũng như văn bản hướng dẫn luật khác không hề "nhắc tới" chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng như những hệ lụy của nó. Trong khi đó, việc vợ chồng chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân sẽ liên quan đến nhiều quy định pháp lý thuộc các luật khác nhau như Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật đất đai, Lệ phí trước bạ… Vì vậy, để quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân đi vào thực tiễn, chúng tôi đề nghị các văn bản luật có liên quan, cụ thể là Luật thuế thu nhập cá nhân hoặc văn bản hướng dẫn và Nghị định quy định về Lệ phí trước bạ phải dự liệu thêm trường hợp chia tài sản chung trong thời kỳ hôn nhân (đối với các tài sản là bất động sản, tài sản khác phải đăng ký quyền sở hữu) là trường hợp được miễn thuế, không phải nộp lệ phí trước bạ. Quy định này sẽ giúp hạn chế tình trạng vợ chồng né tránh làm văn bản thỏa thuận chia tài sản chung bằng các giao dịch giả tạo như cam kết tài sản riêng, hợp đồng tặng cho…

3.1.2. Hoàn thiện quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn

3.1.2.1. Hướng dẫn cụ thể về hình thức nhập tài sản riêng vào tài sản chung theo quy định tại Khoản 2 Điều 32 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000

Mặc dù điều khoản trên đã được hướng dẫn tại Khoản 1 Điều 12 Nghị định số 70/2001/NĐ-CP: "việc nhập tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất và các tài sản có giá trị lớn thuộc quyền sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chồng" [4], nhưng rõ ràng, quy định như vậy thì hướng dẫn sẽ lại cần thêm hướng dẫn khác để hiểu giá trị của tài sản đến bao nhiêu thì được coi là tài sản có giá trị lớn. Tài sản có giá trị lớn được đánh giá chỉ căn cứ vào trị giá thực tế của tài sản hay phải cân nhắc trên cơ sở tương quan giá trị tài sản với toàn bộ tài sản chung của vợ chồng…? Vì vậy, theo chúng tôi, nên quy định việc nhập tài sản theo quy định pháp luật phải đăng ký quyền sở

hữu, quyền sử dụng, thuộc sở hữu riêng của một bên vợ hoặc chồng vào tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại khoản 2 Điều 32 Luật HN&GĐ năm 2000 phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chồng. Việc xác định tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản sẽ căn cứ vào từng loại tài sản và các luật điều chỉnh tương ứng. Như thế, căn cứ xác định trường hợp nhập tài sản riêng vào tài sản chung phải lập thành văn bản đã chuyển từ tiêu chí khó xác định là "có giá trị lớn" sang tiêu chí "minh bạch" hơn đó là "phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng", góp phần hạn chế các tranh chấp liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.

Quy định này cũng cần được áp dụng đối với thỏa thuận tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 để tránh những tranh chấp phát sinh về thỏa thuận tài sản chung của vợ chồng mà không có căn cứ xác định. Vì vậy, có thể có một hướng dẫn chung như sau: việc thỏa thuận tài sản chung theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000 và việc nhập tài sản riêng của một bên vợ, chồng vào tài sản chung của vợ chồng phải được lập thành văn bản, có chữ ký của cả vợ và chồng nếu theo quy định của pháp luật tài sản đó phải đăng ký quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng.

3.1.2.2. Hướng dẫn cụ thể hơn về nguyên tắc chia tài sản chung khi vợ chồng sống cùng với gia đình

Nếu vợ chồng sống cùng gia đình mà ly hôn, việc đánh giá công sức đóng góp của vợ chồng đối với việc tạo lập, duy trì và phát triển tài sản chung là hết sức khó khăn. Vì vậy, mặc dù Điều 96 Luật HN&GĐ năm 2000 đã quy định nhưng quy định này cần được hướng dẫn cụ thể hơn về cách đánh giá công sức đóng góp, đặc biệt là cần làm rõ quy tắc "chia một phần trong khối tài sản chung". Ví dụ, công sức đóng góp ở đây có nhất định phải là việc góp một khoản tiền để gia đình mua sắm tài sản, góp ngày công để tạo ra một tài sản cụ thể hay không? Chia một phần trong khối tài sản chung được thực hiện bằng hiện vật hay giá trị, trong trường hợp nào thì chia hiện vật cho vợ, chồng? Tiêu chí nào để xác định ai nên được chia hiện vật, ai nên được chia tiền ? v.v... Việc có hướng dẫn cụ thể về các vấn đề trên sẽ giúp cho Tòa án

các cấp có hướng giải quyết đúng đắn đối với các yêu cầu chia tài sản chung, đặc biệt là trường hợp vợ chồng yêu cầu chia tài sản là nhà ở, quyền sử dụng đất chung của gia đình.

3.1.3. Hoàn thiện quy định pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng khi vợ hoặc chồng chết

3.1.3.1. Quy định nguyên tắc chia tài sản chung khi vợ hoặc chồng chết

Bên cạnh các quy định của Luật HN&GĐ, các quy định của Luật dân sự về thừa kế đã góp phần giúp các cơ quan xét xử giải quyết đúng các vấn đề pháp lý xung quanh sự kiện một bên vợ hoặc chồng chết trước. Hiện nay, điểm vướng mắc nhất trong thực tiễn áp dụng là pháp luật không quy định nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ hoặc chồng chết. Do luật và văn bản hướng dẫn đều không quy định nên khi tiến hành xét xử đã có nhiều Tòa án giải quyết khác nhau trong tình huống này. Vì vậy cần xây dựng và quy định nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên vợ hoặc chồng chết trước. Trong trường hợp này chúng ta có thể kế thừa quy định của Luật HN&GĐ năm 1986 và Pháp lệnh thừa kế năm 1990 để quy định: Khi một bên vợ hoặc chồng chết trước, nếu cần chia tài sản chung thì chia đôi. Phần tài sản của người chết được chia theo quy định của pháp luật thừa kế.

3.1.3.2. Quy định rõ hậu quả của việc hủy bỏ quyết định tuyên bố vợ hoặc chồng đã chết

Khác với cái chết sinh học thông thường, "cái chết pháp lý" có thể bị hủy bỏ và đương nhiên, khi đó, các vấn đề liên quan tới việc hủy bỏ đó phải được giải quyết để đảm bảo cho họ được trở về thực sự. Giải pháp mà BLDS năm 2005 và Luật HN&GĐ năm 2000 lựa chọn để giải quyết quan hệ vợ chồng trong tình huống này là đương nhiên khôi phục quan hệ hôn nhân nếu người còn sống chưa kết hôn với người khác đang gây ra những khó khăn, phức tạp trong thực tiễn áp dụng như đã phân tích. Tham khảo BLDS Pháp, có thể tìm thấy một giải pháp đơn giản và tiện lợi được quy định tại Điều 132

"Hôn nhân của người mất tích bị chấm dứt, ngay cả khi bản án tuyên bố đã bị hủy". Lưu ý rằng, BLDS Pháp quy định: "sau khi được ghi chú vào sổ, bản án tuyên bố một người là mất tích, có hệ quả pháp lý tương tự như khi người đó chết" [27, Điều 128]. Như vậy, việc trở về của của người đã bị tuyên bố mất tích (chết) sẽ không gây "xáo trộn" đến cuộc sống của người chồng hoặc vợ còn sống. Nếu vợ chồng muốn tiếp tục quan hệ hôn nhân họ phải đăng ký kết hôn lại. Chúng tôi xin kiến nghị một số hướng sửa đổi của pháp luật Việt Nam như sau:

Một là, nếu luật vẫn tiếp tục quy định như hiện nay về hậu quả đối với vợ chồng khi có quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố vợ, chồng chết tức là quan hệ hôn nhân đương nhiên được khôi phục nếu người còn sống chưa kết hôn với người khác, thì cần có hướng dẫn cụ thể về vấn đề khôi phục quan hệ tài sản của vợ chồng đặc biệt là thời điểm khôi phục để có cơ sở xác định chính xác tài sản chung của vợ chồng.

Hai là, quy định theo hướng quan hệ hôn nhân chấm dứt khi một người bị tuyên bố là đã chết, ngay cả trong trường hợp sau này quyết định đó bị hủy bỏ. Nếu quy định theo hướng này, trước tiên chúng ta sẽ phải sửa đổi Khoản 2 Điều 83 BLDS năm 2005 sau đó mới có thể sửa Điều 26 Luật HN&GĐ năm 2000 để tránh tình trạng luật chuyên ngành mâu thuẫn với luật chung.

3.2. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ CHIA TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG

Để pháp luật đi vào cuộc sống thì hoàn thiện luật chưa đủ mà còn cần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật, bởi nhiều trường hợp luật đã quy định đầy đủ nhưng do quá trình áp dụng có nhiều bất cập nên pháp luật chưa bảo vệ được quyền lợi của đương sự. Trong phạm vi luận văn, chúng tôi xin kiến nghị một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật như sau:

3.2.1. Giải pháp nâng cao chất lượng xét xử các vụ việc liên quan tới chia tài sản chung của vợ chồng

Xem tất cả 132 trang.

Ngày đăng: 22/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí