Chia Di Sản Là Nhà Ở Và Quyền Sử Dụng Đất Ở Có Di Sản Dùng Vào Việc Thờ Cúng Và Di Tặng

doạ hoặc cưỡng ép; nội dung di chúc không trái pháp luật, đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của pháp luật. Ngoài ra, đối với di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý; Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực; Đối với di chúc miệng cần phải đảm bảo đủ điều kiện về trường hợp được lập di chúc miệng và thủ tục lập di chúc miệng.

Người để lại thừa kế nhà ởquyền sử dụng đất ở theo di chúc phải có đủ điều kiện của chủ thể lập di chúc theo qui định tại Điều 647 Bộ luật dân sự năm 2005 về người lập di chúc:

1. Người đã thành niên có quyền lập di chúc, trừ trường hợp người đó bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình.

2. Người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể lập di chúc, nếu được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý [23, Điều 647].

Người thừa kế nhà ở và quyền sử dụng đất ở theo di chúc là cá nhân, tổ chức quyền sử dụng đất theo di chúc có thể là cá nhân, cơ quan hay tổ chức.

Người thừa kế nhà ở và quyền sử dụng đất ở phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Có nghĩa là để tham gia vào quan hệ thừa kế thì người thừa kế phải có năng lực chủ thể, tức là người đó phải còn sống. Nếu đứa trẻ sinh ra và còn sống thì sẽ được hưởng thừa kế, nếu sinh ra và chết ngay thì phần di sản đó được chia cho những người thừa kế khác. Người thừa kế theo di chúc là cơ quan, tổ chức thì cơ quan, tổ chức đó phải còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế, tức là chúng đã được thành lập và chưa chấm dứt hoạt động.

Theo quy định tại Điều 636 BLDS năm 2005 thì: “Kể từ thời điểm mở thừa kế, những người thừa kế có các quyền, nghĩa vụ tài sản do người chết để lại" [23, Điều 636].

Những người thừa kế có trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ tài sản trong phạm vi di sản do người chết để lại, trừ trường hợp có thoả thuận khác (ví dụ hai bên thoả thuận được là người thừa kế không phải thực hiện nghĩa vụ tài sản hoặc người thừa kế sẽ thực hiện nghĩa vụ vượt ra ngoài phạm vi di sản do người chết để lại). Trong trường hợp di sản là nhà ở và quyền sử dụng đất ở chưa được chia thì nghĩa vụ tài sản được người quản lý di sản thực hiện theo thoả thuận của những người thừa kế. Trường hợp di sản là nhà ở và quyền sử dụng đất ở đã được chia thì mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận, trừ trường hợp có thoả thuận khác. Sự khác biệt giữa BLDS 1995 và BLDS 2005 là trong BLDS 2005 ngoài việc quy định mỗi người thừa kế thực hiện nghĩa vụ tài sản do người chết để lại tương ứng nhưng không vượt quá phần tài sản mà mình đã nhận thì còn quy định thêm “trừ trường hợp có thoả thuận khác”. Điều này tạo ra cơ hội cho những người thừa kế và chủ nợ được thoả thuận việc thực hiện nghĩa vụ do người chết để lại một cách tự nguyện, mềm dẻo, không bị cứng nhắc. Chia di sản là nhà ở và quyền sử dụng đất ở theo di chúc không những chia theo di chúc riêng của cá nhân, mà còn chia theo di chúc chung của vợ chồng (do vợ chồng lập di chúc chung). Dưới đây là một vụ tranh chấp về chia di sản là nhà ở và quyền sử dụng đất ở theo di chúc chung của vợ, chồng:

Về di chúc chồng của vợ, chồng: Theo Bản án số 1/2011/DS-ST ngày 24 tháng 5 năm 2011 giải quyết tranh chấp về thừa kế liên quan đến di chúc chung. Bên nguyên đơn: Bà Phạm Thị Kim Dung, sinh năm 1959; cư trú: Phường Cát Linh, Đống Đa, Hà Nội; bị đơn: ông Phạm Đăng Ngọc, sinh 1943, cư trú cùng phường Cát Linh.

Theo đơn khởi kiện, ngày 18 tháng 6 năm 2010 chị Phạm Thị Dung trình bày: Bố mẹ chị đã lập di chúc chung ngày 04/03/2002. Tài sản chung của bố, mẹ chị là cụ Phạm Đăng Cống (mất năm 2007) và mẹ là cụ Nguyễn Thị Âu (mất năm 2006). Tài sản chung của hai cụ có:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.

1) 98,4 mét vuông đất thuộc thửa số 183, tờ bản đồ số 7G-II-46, trên có nhà bê tông xây gạch, được cấp Giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10109030184 ngày 12/6/2001.

2) 104 mét vuông đất thuộc thửa số 203, tờ bản đồ 7G-II-46 trên có nhà bê tông gạch, có giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10109030184 ngày 12/6/2001. Diện tích nhà trên đất này, do anh Bình chi xây dựng nên thuộc quyền sở hữu của anh Bình, chị không yêu cầu chia.

Chia di sản là nhà ở và quyền sử dụng đất ở theo pháp luật Việt Nam - 7

3) Nhà đất tại thôn Mỹ, xã Cự Khê, huyện Thanh Oai – Hà Nội đứng tên cụ Nguyễn Thị Âu. Cụ Âu và cụ Cống đã lập chung di chúc giao cho anh Phạm Đăng Chung trực tiếp quản lý dùng vào việc thờ cúng bố mẹ và các cụ nội, ngoại nên chị không yêu cầu chia thừa kế diện tích đất này.

Ngày 4 tháng 3 năm 2002, cụ Phạm Đăng Cống và cụ Nguyễn Thị Âu lập di chúc chung với nội dung: Hai cụ quyết định bán căn nhà trên thửa đất số 183 (hiện đang có tranh chấp). 50% số tiền bán được sẽ gửi tiết kiệm để các cụ sinh sống, dưỡng già; 50% số tiền còn lại (sau khi đã trừ đi các chi phí liên quan) sẽ được chia cho các con theo nguyên tắc con trai mỗi người được hưởng 3 phần thì con gái mỗi người được hưởng một phần mà không phân biệt thứ bậc. Sau khi di chúc được lập, các cụ không bán được nhà và đến năm 2006 cụ Âu chết; năm 2007 cụ Cống chết. Các con của hai cụ gồm: Ông Phạm Đăng Chung; ông Phạm Đăng Bình; bà Phạm Thị Liên; bà Phạm Thị Diệp; bà Phạm Thị Chi.

Toà áp dụng các Điều 646, 649, khoản 4 Điều 650, Điều 652, 653, 657,

658, 663, 664, 668 Bộ Luật dân sự để giải quyết.

Toà quyết định sau khi đã xác định giá trị di sản theo giá thị trường tại thời điểm đó là 9.840.000.000 đồng:

1) Chia thừa kế theo di chúc cho 03 người con trai của cụ Cống và cụ Âu gồm: ông Phạm Đăng Ngọc, Phạm Đăng Bình, Phạm Đăng Chung mỗi người được hưởng 3 kỷ phần là 756.923.077 x 3 = 2.270.769.230 đồng;

2) Chia thừa kế cho 4 người con gái là: bà Phạm Thị Kim Dung, bà Phạm Thị Liên, bà Phạm Thị Diệp, bà Phạm Thị Chi mỗi người được hưởng một kỷ phần trị giá 756.923.077 căn cứ vào cách chia trên, Toà án đã chia bằng hiện vật.

Căn cứ vào bản án trên, nhận thấy chia di sản theo di chúc chung của vợ chồng trong trường hợp cả hai vợ chồng đều đã chết thì không mấy khó khăn. Tuy nhiên, nếu vợ hoặc chồng còn sống mà muốn sửa đổi, bổ sung di chúc thì chắc chắn rằng việc giải quyết các tranh chấp sẽ không đơn giản.

Người thừa kế nhà ở và quyền sử dụng đất ở là Nhà nước, cơ quan hay tổ chức khác cũng phải thực hiện nghĩa vụ tài sản như người thừa kế là cá nhân.

Người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác. Thời hạn thực hiện quyền từ chối là sáu tháng kể từ ngày mở thừa kế. Việc đưa ra thời hạn từ chối nhận di sản nhiều khi khó thực hiện, vì người thừa kế có thể sẽ từ chối nhận di sản bất kỳ thời điểm nào mà không ai bắt được họ phải nhận (trừ trường hợp họ thuộc đối tượng từ chối nhằm trốn tránh nghĩa vụ). Theo quy định tại Điều 643 BLDS năm 2005, những người theo quy định tại khoản 1 không được quyền hưởng thừa kế theo pháp luật di sản thừa kế nói chung và di sản là nhà ở và quyền sử dụng đất ở nói riêng (không được chia di sản):

- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khoẻ hoặc

về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;

- Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;

- Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;

- Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, huỷ di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.

Nhưng theo quy định tại khoản 2 Điều 643 BLDS, thì những người này vẫn được hưởng di sản nếu người để lại di sản đã biết hành vi vi phạm của những người đó mà vẫn đồng ý cho họ hưởng di sản theo di chúc. Vì vậy, di sản thừa kế là nhà ở và quyền sử dụng đất ở của người chết để lại vẫn được chia cho những người không được quyền hưởng theo pháp luật, nhưng vẫn được quyền hưởng theo di chúc, nếu người có tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất ở vẫn chỉ định cho họ hưởng theo di chúc.

2.2. Chia di sản là nhà ở và quyền sử dụng đất ở có di sản dùng vào việc thờ cúng và di tặng

2.2.1. Nhà ở và quyền sử dụng đất ở là di sản dùng vào việc thờ cúng

Thờ cúng tổ tiên là phong tục của người Việt Nam đã có từ rất xa xưa và hiện nay vẫn được coi trọng. Cơ sở của quan niệm mang tính chất đạo đức và văn hoá, có những quy ước rất chặt chẽ của gia đình, dòng tộc, đồng thời Nhà nước cũng cũng có những quy định pháp luật cụ thể.

Di sản dùng vào việc thờ cúng theo quy định của pháp luật thời thực dân - phong kiến “là phần động sản hay bất động sản trong gia tài dùng vào việc cúng giỗ một người vợ hoặc người chồng người ấy và việc cúng giỗ tổ tiên bên nội người ấy” [30]. Thông thường, di sản dùng vào việc thờ cúng

được chuyển giao cho người nối dõi hay được coi là nối dõi người đã chết để sử dụng thu hoa lợi dùng vào việc thờ cúng cho người để lại hương hoả và những người theo quan hệ huyết tộc của người đó. Phần tài sản dùng vào việc thờ cúng không quá 1/5 tổng giá trị tài sản của người để lại di sản đó. Di sản dùng vào việc thờ cúng được coi như trường tồn, do vậy không thể chia thừa kế. Tuy nhiên, di sản dùng vào việc thờ cúng có thể không trường tồn ngoài ý chí của cá nhân do bị tiêu huỷ hay di sản bị trưng dụng do hội đồng gia tộc quyết định hoặc theo quy định của pháp luật [30].

Dưới chế độ XHCN, việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, cha mẹ của công dân được pháp luật thừa nhận và có những quy định bảo vệ.

- Thông tư số 81-TANDTC chỉ hướng dẫn về hướng giải quyết tranh chấp về nhà thờ họ.

- Khi Pháp lệnh thừa kế được ban hành (có hiệu lực vào ngày 10 tháng 9 năm 1990), di sản dùng vào việc thờ cúng được quy định tại Điều 21: “Nếu người lập di chúc có để lại di sản dùng vào việc thờ cúng thì di sản đó được coi như di sản chưa chia”. Điều 21 PLTK có quy định theo nguyên tắc nếu di sản khác của người chết để lại không bảo đảm thực hiện nghĩa vụ tài sản của người để lại di sản đó với người khác thì di sản dùng vào việc thờ cúng phải được coi là di sản chưa chia và cũng phải đưa vào khối tài sản thanh toán nghĩa vụ tài sản mà người chết để lại.

- BLDS năm 1995 được ban hành quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng tại Điều 673 và BLDS năm 2005 được ban hành, quy định về di sản dùng vào việc thờ cúng tại Điều 670. Theo quy định tại các Điều 673 BLDS năm 1995 và Điều 670 BLDS năm 2005 thì di sản dùng vào việc thờ cúng không được chia thừa kế mà chỉ để dùng vào việc thờ cúng. Điều 670 BLDS năm 2005 quy định:

1. Trong trường hợp người lập di chúc có để lại một phần di sản dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó không được chia thừa kế và được giao cho một người đã được chỉ định trong di chúc quản lí để thực hiện việc thờ cúng; nếu người được chỉ định không thực hiện đúng di chúc hoặc không theo thoả thuận của những người thừa kế thì những người thừa kế có quyền giao phần di sản dùng vào việc thờ cúng cho người khác quản lí để thờ cúng.Trong trường hợp người để lại di sản không chỉ định người quản lí di sản thờ cúng thì những người thừa kế cử một người quản lí di sản thờ cúng.

Trong trường hợp tất cả những người thừa kế theo di chúc đều đã chết thì phần di sản dùng để thờ cúng thuộc người đang quản lí hợp pháp di sản đó trong số những người thuộc diện thừa kế theo pháp luật.

2. Trong trường hợp toàn bộ di sản của người chết không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành một phần di sản dùng vào việc thờ cúng [23, Điều 670].

2.2.1.1. Căn cứ xác lập di sản dùng vào việc thờ cúng: Do người lập di chúc định đoạt phần di sản dùng vào việc thờ cúng và chỉ rõ tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất ở được dùng vào việc thờ cúng thì phần di sản đó là phần di sản dùng vào việc thờ cúng.

Về giá trị kinh tế của di sản dùng vào việc thờ cúng: Nội dung Điều 670 BLDS không quy định cụ thể giá trị kinh tế của di sản dùng vào việc thờ cúng chiếm tỉ lệ nhất định nào trong tổng giá trị khối di sản của người chết để lại, do vậy xung quanh vấn đề di sản dùng vào việc thờ cúng (xét về kinh tế) theo tỉ lệ nào trong giá trị di sản của người chết để lại là hợp lí?

Điều 670 BLDS thì hiểu một phần di sản dùng vào việc thờ cúng là một phần nhỏ trong tổng giá trị tài sản (di sản) do người lập di chúc để lại. Theo cách hiểu này thì một phần di sản dùng vào việc thờ cúng được xác định căn

cứ vào cách chia di sản của người chết thành nhiều phần bằng nhau, chọn cách chia thành một trăm phần, theo đó một phần không thể lớn hơn năm mươi phần trăm của tổng giá trị di sản của người lập di chúc để lại. Nếu phần di sản dùng vào việc thờ cúng lớn hơn 1/2 tổng giá trị di sản của người chết để lại thì khi đó là phần lớn mà không thể hiểu là một phần. Cách hiểu này về hình thức tương đối phù hợp với thực trạng của đời sống xã hội.

Cách hiểu thứ hai, phủ nhận cách hiểu thứ nhất ở những căn cứ pháp luật quy định quyền tự định đoạt của chủ sở hữu tài sản. Với tư cách là chủ sở hữu tài sản, người lập di chúc có quyền định đoạt tài sản của mình theo di chúc cho người thừa kế, để lại di sản dùng vào việc thờ cúng theo luật định. Như vậy, người lập di chúc có quyền định đoạt một phần hoặc toàn bộ tài sản của mình là nhà ở và quyền sử dụng đất ở sau khi chết để dùng vào việc thờ cúng.

Trường hợp thứ nhất, nếu sự định đoạt đó vi phạm quyền thừa kế không phụ thuộc vào nội dung của di chúc theo quy định tại Điều 669 BLDS. Nếu người lập di chúc định đoạt phần lớn hoặc toàn bộ di sản là nhà ở và quyền sử dụng đất ở dùng vào việc thờ cúng mà xâm phạm đến quyền được hưởng 2/3 suất thừa kế được chia theo pháp luật của cha, mẹ, vợ, chồng, các con dưới 18 tuổi và các con tuy đã thành niên mà không có khả năng lao động thì trước hết tính phần thừa kế cho những người này theo quy định tại Điều 669 BLDS, phần còn lại là di sản dùng vào việc thờ cúng [30].

Trường hợp thứ hai, quyền của người lập di chúc định đoạt di sản là nhà ở và quyền sử dụng đất ở dùng vào việc thờ cúng bị hạn chế trong trường hợp toàn bộ tài sản khác của người đó để lại không đủ để thanh toán nghĩa vụ tài sản của người đó thì không được dành di sản là nhà ở và quyền sử dụng đất ở dùng vào việc thờ cúng (khoản 2 Điều 699 BLDS).

Với quy định tại Điều 670 BLDS năm 2005 về di sản dùng vào việc thờ cúng không những rất phức tạp khi áp dụng đối với di sản thông thường khác, mà còn phức tạp hơn khi di sản dùng vào việc thờ cúng được người lập di

Xem tất cả 106 trang.

Ngày đăng: 21/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí