Theo BLDS Bắc kỳ và BLDS Trung kỳ, quy định tài sản của vợ chồng được xác định theo nguyên tắc: Nếu hai vợ chồng không lập hôn ước thì áp dụng chế độ cộng đồng toàn sản. Điều 105 BLDS Trung Kỳ và Điều 106, 107 BLDS Bắc Kỳ quy định nếu hai vợ chồng không có hôn ước với nhau thì cứ theo lệ hợp nhất tài sản, nghĩa là bao nhiêu lợi tức tài sản của chồng và của vợ hợp làm một mà chung nhau. Như vậy, pháp luật trong giai đoạn này đã quy định hai hình thức là chế độ tài sản theo hôn ước và chế độ tài sản pháp định cho vợ chồng lựa chọn. Quy định về chế độ tài sản theo hôn ước lần đầu tiên được quy định trong pháp luật Việt Nam, và có lẽ do hôn ước không phù hợp với tình hình xã hội đương thời, không phù hợp với tục lệ truyền thống của gia đình Việt Nam nên hôn ước không được áp dụng phổ biến trong thực tiễn, ngược lại, chế độ tài sản pháp định được áp dụng rộng rãi. Theo đó, chế độ cộng đồng toàn sản được thiết lập và theo quy định tại Điều 106, Điều 107 BLDS Bắc Kỳ và Điều 105 BLDS Trung Kỳ, tài sản chung của vợ chồng bao gồm: Tài sản do vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân; tài sản vợ chồng có được do làm việc; hoa lợi, lợi tức của toàn bộ tài sản trong gia đình, không phân biệt lợi tức từ tài sản riêng hay lợi tức từ tài sản chung. Tuy nhiên, những tài sản này thuộc khối tài sản chung chỉ mang tính tạm thời. Khi hôn nhân chấm dứt thì các tài sản vợ chồng có trước khi kết hôn đã được hợp nhất tạm thời được tách ra để chia theo nguyên tắc của ai thì người đó lấy lại, còn các tài sản chung của vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân được chia đôi cho vợ và chồng.
Ngoài ra, BLDS Bắc kỳ và BLDS Trung kỳ cũng đã có các quy định về nghĩa vụ tài sản trong gia đình. Theo đó, tất cả các khoản nợ của người chồng, không phân biệt là nhằm mục đích gì hoặc do phạm pháp gây ra trước khi kết hôn hoặc sau khi kết hôn đều phải coi là nợ của vợ chồng. Tuy nhiên nợ của vợ chỉ được coi là nợ chung khi vợ vay với tư cách là đại diện cho đoàn thể
vợ chồng và các khoản nợ vay với sự ưng thuận của chồng và những khoản nợ do hành vi phạm pháp gây ra. Mặt khác, người chồng có quyền quản lý, sử dụng và định đoạt tài sản của gia đình theo ý muốn, trừ bất động sản là tài sản riêng của người vợ, nhưng nếu người vợ sử dụng, định đoạt tài sản của gia đình thì phải xin phép chồng hoặc việc sử dụng tài sản của vợ là nhằm bảo đảm nhu cầu thiết yếu hàng ngày của gia đình.
Về việc chia tài sản chung của vợ chồng, theo quy định của pháp luật thời kỳ này, khi người chồng chết, nếu người vợ không tái giá thì tài sản chung vẫn để nguyên và người vợ góa được thay chồng quản lý tài sản chung. Nhưng khi người vợ chết trước thì một mình người chồng trở thành chủ sở hữu của tất cả tài sản chung, kể cả phần tài sản riêng của vợ.
Khi vợ chồng ly hôn, nếu vợ chồng có lập hôn khế thì chia theo các điều khoản mà vợ chồng đã thỏa thuận trong hôn ước; nếu không có hôn ước thì tài sản được chia theo hai trường hợp:
- Nếu vợ chồng không có con chung, vợ, chồng được lấy lại kỷ phần của mình “bằng vật hiện còn”, tài sản chung được chia mỗi người một nửa. Nếu tài sản riêng của vợ đã bán đi để chi dùng cho gia đình hoặc đã cho riêng người chồng thì người vợ không được đòi lại.
- Nếu vợ chồng có con chung thì người vợ không được lấy lại toàn bộ kỷ phần của mình, những tài sản này sẽ thuộc tài sản chung do người chồng quản lý. Theo Điều 112 của BLDS Bắc Kỳ, sau khi ly hôn, người vợ được hưởng một phần tài sản chung, nhiều hay ít phụ thuộc vào công sức đóng góp của vợ và do Tòa án quyết định. Theo Điều 110 BLDS Trung Kỳ, người vợ sẽ được nhận 1/3 tài sản chung. Trong trường hợp ly hôn do lỗi của người vợ thì phần trả lại cho người vợ sẽ bị giảm đi một nửa (BLDS Bắc Kỳ) và một phần tư (BLDS Trung Kỳ). Và mặc nhiên quy định này hoàn toàn không đề cập đến lỗi của người chồng và điều đó cũng chính là sự bất bình đẳng mà pháp luật thừa nhận giữa vợ với chồng khi chia tài sản.
Để phân biệt tài sản nào là tài sản riêng hay tài sản chung của vợ chồng, pháp luật căn cứ vào việc đăng ký quyền sở hữu hoặc có chứng thư xác nhận nguồn gốc của tài sản đó. Đối với các động sản không được đăng ký và cũng không có chứng thư xác nhận nguồn gốc thì được suy đoán là tài sản chung của vợ chồng; nếu bên vợ, chồng cho rằng đó là tài sản riêng của mình thì có nghĩa vụ phải chứng minh. [24, tr 47]
Đối với chế độ tài sản của vợ chồng áp dụng tại Nam thời kỳ đầu được áp dụng theo Tập dân luật Giản yếu năm 1883 (bao gồm một hệ thống án lệ). Theo đó, chế độ tài sản của vợ chồng được quy định dựa trên nguyên tắc: người vợ không có tài sản riêng, không có chế độ tài sản chung giữa vợ và chồng mà toàn bộ tài sản trong gia đình đều thuộc quyền sở hữu duy nhất của người chồng trong thời kỳ hôn nhân cũng như sau khi người vợ chết. Nhưng nếu người chồng chết trước thì người vợ chỉ có quyền hưởng dụng thu lợi trên toàn bộ tài sản gia đình khi còn ở góa.
Tuy nhiên, án lệ cũng công nhận trong một số trường hợp đặc biệt, người vợ cũng có quyền sở hữu riêng đối với những tài sản là đồ tư trang cá nhân, tài sản do gia đình nhà vợ tặng cho hoặc để lại thừa kế và bất động sản ghi rõ tên vợ là chủ sở hữu trong sổ địa bộ.
Có thể bạn quan tâm!
- Chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 - 1
- Chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 - 2
- Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Của Chế Độ Tài Sản Chung Của Vợ Chồng
- Chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 - 5
- Căn Cứ Xác Lập Tài Sản Chung Của Vợ Chồng
- Quyền Và Nghĩa Vụ Của Vợ, Chồng Đối Với Tài Sản Chung
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
Nhìn chung, những quy định của pháp luật về HN&GĐ trong thời kỳ này vẫn theo nguyên tắc bất bình đẳng, người vợ phụ thuộc chồng về mọi phương diện. Điều này đã phản ánh sự bất bình đẳng của người vợ so với người chồng dưới chế độ thực dân phong kiến trước đây.
1.4.2. Chế độ tài sản chung của vợ chồng ở nước ta từ sau cách mạng Tháng Tám (1945) đến nay
Giai đoạn 1945 – 1954
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, chính quyền cách mạng dân chủ nhân dân được thiết lập. Tuy nhiên do điều kiện đất nước đang gặp
khó khăn trong tình trạng “ngàn cân treo sợi tóc”, cùng một lúc phải đối phó với thù trong giặc ngoài, Nhà nước ta chưa xây dựng ngay được một văn bản Luật HN&GĐ, do đó, Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã ban hành Sắc lệnh số 90/SL ngày 10/10/1945 cho phép áp dụng pháp luật cũ một cách có chọn lọc, miễn sao không trái với lợi ích của chính thể Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và lợi ích của nhân dân lao động. Như vậy, trong thời gian này, các quan hệ về HN&GĐ vẫn chịu sự điều chỉnh của ba văn bản luật do thực dân Pháp ban hành (Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ và tập Dân luật giản yếu Nam kỳ). [12, tr 84].
Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946 được ban hành đánh dấu bước chuyển mình lớn nhất trong lịch sử dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử pháp luật Việt Nam, quyền bình đẳng nam, nữ được ghi nhận ở đạo luật có hiệu lực pháp lý cao nhất - Hiến pháp. Điều 9 Hiến pháp năm 1946 quy định: “Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện”. Để cụ thể hoá quy định tại Điều 9 của Hiến pháp năm 1946, sắc lệnh số 97/SL ngày 22/05/1950 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa về sửa đổi một số quy lệ và chế định trong dân luật đã xoá bỏ sự bất bình đẳng giữa người vợ, người chồng trong chế độ phong kiến. Trong Sắc lệnh này có ghi nhận: “Chồng và vợ có địa vị bình đẳng trong gia đình”; “Người đàn bà khi lấy chồng có toàn năng lực về mặt hộ” (Điều 5, Điều 6). Trên cơ sở những quy định này, quyền gia trưởng của người chồng bị xóa bỏ, vợ và chồng có quyền ngang nhau trên mọi phương diện, trong đó có quyền bình đẳng về tài sản chung của vợ chồng.
Rõ ràng đây là những quy định mới và tiến bộ trong pháp luật về HN&GĐ ở nước ta. Với những quy định trên, pháp luật HN&GĐ của Nhà nước ta thời kỳ này đã góp phần đáng kể vào việc xoá bỏ những quy định lạc hậu của chế độ HN&GĐ thực dân, phong kiến, giải phóng người phụ nữ thoát
khỏi sự bất bình đẳng trong gia đình cũng như trong quan hệ sở hữu đối với tài sản của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Từ đó, tạo cơ sở xây dựng một chế độ HN& đầy đủ và chặt chẽ về chế độ tài sản chung của vợ chồng nên quyền bình đẳng giữa vợ chồng trong việc chia tài sản cũng chưa được thể hiện một cách rõ nét. Áp dụng Sắc lệnh số 90/SL ngày 10/10/1945 và Sắc lệnh số 97/SL ngày 22/05/1950, chế độ tài sản chung của vợ chồng được áp dụng trong thời kỳ này là chế độ cộng đồng toàn sản (áp dụng theo Bộ Dân luật Bắc kỳ và Dân luật Trung kỳ có chọn lọc). Nhưng khác với thời kỳ thực dân, phong kiến trước đây, vợ chồng có quyền bình đẳng trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt đối với tài sản chung. Điều này đã thể hiện bản chất tốt đẹp của chế độ xã hội mới, bảo đảm quyền bình đẳng nam nữ, giữa vợ và chồng về mọi phương diện.
Về việc chia tài sản chung của vợ chồng, theo Điều 11 của Sắc lệnh số 97/SL: “Trong lúc còn sinh thời người chồng goá vợ hay vợ goá, các con đã thành niên có quyền xin chia phần tài sản thuộc quyền sở hữu của người chết, sau khi đã thanh toán tài sản chung” và Điều 6 Sắc lệnh số 159/SL ngày 17/11/1050 của Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa quy định về vấn đề ly hôn cũng dự liệu:
“Toà án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị thành niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng.
Hai vợ chồng đã ly hôn phải cùng chịu phí tổn về việc nuôi dạy con, mỗi người tuỳ theo khả năng của mình.”
Như vậy, theo các quy định này, vợ chồng có quyền chia tài sản chung khi một bên chết trước hoặc ly hôn nhưng không quy định về nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, dựa trên tinh thần của những văn bản này có thể suy luận: tài sản chung của vợ chồng phải được chia đôi, mỗi bên một nửa giá trị tài sản chung.GĐ công bằng và hạnh phúc. Tuy nhiên Sắc lệnh này vẫn chưa thể hiện
Mặc dù trong thời kỳ này, các quy định về HN&GĐ, trong đó có chế độ tài sản chung của vợ chồng chưa được quy định cụ thể, rõ ràng nhưng đã góp phần quan trọng nhằm hạn chế và dần xóa bỏ những quy định lạc hậu của chế độ HN&GĐ thực dân, phong kiến; đặt nền tảng xây dựng chế độ HN&GĐ mới dân chủ và tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa trên đất nước ta.
Giai đoạn 1954 – 1975
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đất nước ta tạm thời bị chia cắt làm hai miền với hai nhiệm vụ cách mạng: Miền Bắc bước vào thời kỳ quá độ xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc dân chủ, đấu tranh thống nhất đất nước. Chính sự khác biệt đó đã làm cho hệ thống pháp luật điều chỉnh hai miền cũng khác nhau, pháp luật về chế độ tài sản chung của vợ chồng ở hai miền thể hiện những nội dung trái chiều. Luật HN&GĐ năm 1959 ở Miền Bắc chỉ quy định về một hình thức của chế độ tài sản pháp định (chế độ cộng đồng toàn sản). Trong khi đó, ở miền Nam, ba đạo luật đã được lần lượt ban hành để điều chỉnh các quan hệ dân sự và gia đình (Luật Gia đình năm 1959, Sắc luật số 15/64 năm 1964 và Bộ dân luật năm 1972) đều thừa nhận quyền tự do lập hôn ước của vợ chồng và chế độ tài sản chung theo luật định chỉ được áp dụng khi vợ chồng không lập hôn ước.
Ở miền Nam, cả ba văn bản pháp luật này tuy đã hủy bỏ chế độ đa thê song vẫn duy trì quyền gia trưởng của người chồng đồng thời có khuynh hướng “dân luật hoá” các quan hệ HN&GĐ, trong đó có quan hệ tài sản giữa vợ và chồng. Quyền tự do lập hôn ước trở thành nguyên tắc trong Luật và chế độ hôn sản pháp định cũng chỉ đặt ra khi vợ chồng đã từ bỏ nguyên tắc này hoặc có thực hiện nhưng vi phạm trật tự công cộng, thuần phong mỹ tục và quyền lợi của con. Khoản 1 Điều 47 Luật Gia đình năm 1959 quy định: “Nếu không có hôn ước đặc biệt, vợ chồng sẽ được đặt dưới chế độ cộng đồng tài sản”. Điều 144 Bộ Dân luật năm 1972 cũng quy định tương tự: “Luật pháp
chỉ quy định chế độ phu phụ tài sản khi vợ chồng không lập hôn ước”. Theo Luật Gia đình năm 1959 quy định chế độ tài sản pháp định là chế độ cộng đồng toàn sản, tất cả tài sản vợ, chồng có trước và trong thời kỳ hôn nhân đều thuộc tài sản chung của vợ chồng, quyền có tài sản riêng của vợ, chồng không được thừa nhận. Tuy nhiên, cũng như BLDS Bắc Kỳ và BLDS Trung Kỳ, những tài sản riêng của vợ, chồng có trước khi kết hôn được coi là tài sản chung một cách “tạm thời”, vì khi phải phân chia tài sản của vợ chồng thì của riêng ai trả lại cho người đó.
Khác với Luật Gia đình 1959, Sắc luật số 15/64 và BLDS năm 1972 quy định, bên cạnh khối tài sản cộng đồng, vợ, chồng có quyền có tài sản riêng. Điều 54, 55 Sắc luật số 15/64 và Điều 151, 152 Bộ Dân luật năm 1972 cũng quy định những tài sản nào là tài sản chung của vợ chồng. Theo đó, chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong hai văn bản này là chế độ cộng đồng động sản và tạo sản. Ở chế độ cộng đồng này, tất cả động sản và tạo sản mới thuộc khối tài sản chung, còn những bất động sản mà vợ, chồng có trước khi kết hôn hoặc được tặng cho riêng, thừa kế riêng trong thời kỳ hôn nhân thuộc tài sản riêng của vợ, chồng. Vì vậy, khối tài sản chung của vợ chồng bao gồm:
- Các động sản thuộc quyền sở hữu của mỗi bên vợ, chồng khi kết hôn;
- Các động sản của vợ hoặc chồng được hưởng trong thời kỳ hôn nhân do được thừa kế, tặng cho;
- Các động sản và bất động sản của vợ hoặc chồng có được trong thời kỳ hôn nhân;
- Hoa lợi thu được của tất cả các loại tài sản mà vợ, chồng có được trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân.
Đối với bất động sản thuộc quyền sở hữu của vợ hoặc chồng có trước khi kết hôn hoặc trong thời kỳ hôn nhân nhưng được thừa kế riêng hoặc tặng
cho riêng không thuộc khối tài sản chung của vợ chồng mà đó là những tài sản thuộc sở hữu riêng của mỗi bên.
Nếu như trong thời Pháp thuộc, theo nguyên tắc bất bình đẳng, người vợ phụ thuộc chồng về mọi phương diện thì Luật Gia đình được xây dựng theo quan niệm bảo đảm vợ chồng bình đẳng, cả vợ và chồng đều có đủ năng lực pháp lý. Theo Điều 49 Luật Gia đình thì “vợ, chồng cùng quản trị khối tài sản cộng đồng”. Đối với các khoản nợ, luật cũng không có sự phân biệt giữa nợ của vợ hay nợ của chồng mà quy định: khối tài sản chung của vợ chồng phải gánh chịu tất cả các khoản nợ của vợ, chồng trước khi kết hôn, trong thời kỳ hôn nhân hoặc do hành vi trái pháp luật của vợ, chồng gây ra (Điều 54 Luật Gia đình). Tuy nhiên, sự bình đẳng trong quan hệ tài sản của vợ chồng vẫn chưa được bảo đảm trên thực tế, quy định này dần dần tỏ ra không còn phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội và về mặt pháp lý, Điều 39 Luật Gia đình vẫn ghi nhận “người chồng là trưởng gia đình”.
Không như Luật Gia đình năm 1959, Điều 42, Điều 56 của Sắc luật số 15/64 và Điều 137, Điều 153 của BLDS năm 1972 ghi nhận người chồng là gia trưởng và hành xử quyền gia trưởng theo quyền lợi của gia đình và con cái, có quyền quản lý tài sản chung của vợ chồng như là chủ sở hữu duy nhất. Chỉ trong trường hợp chồng bị mất tích hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự, người vợ mới có quyền thay thế chồng quản lý tài sản chung của gia đình.
Về việc thanh toán hôn sản, theo Luật Gia đình năm 1959, tài sản chung của vợ chồng chỉ được chia khi một bên vợ hoặc chồng chết, bởi lẽ vấn đề ly hôn không được pháp luật chấp nhận. Chỉ có một trường hợp ngoại lệ theo Điều 55 Luật Gia đình là cho phép Tổng thống có quyền cho vợ chồng ly hôn sau khi đã hỏi ý kiến Chánh án tòa Phá án và Chánh nhất tòa Thượng thẩm nơi cư trú của vợ chồng và sau khi nghe tộc trưởng hai bên cùng ý kiến và nguyện vọng của hai vợ chồng. Tuy nhiên, Luật Gia đình năm 1959 cũng