Tòa án để từ đó thấy được những vướng mắc, bất cập của pháp luật hiện hành và đề xuất những phương án nhằm hoàn thiện quy định của pháp luật về chế độ tài sản chung của vợ chồng.
4. Phạm vi nghiên cứu
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài sản chung của vợ chồng; quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung của vợ chồng; các trường hợp cũng như nguyên tắc phân chia tài sản chung của vợ chồng.
5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử của triết hoc
Mác - Lênin, theo đó, tồn tại xã hội quyết định
ý thức xã hội, đồng thời giữa chúng có mối quan hệ biện chứng; pháp luật là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, được hình thành từ cơ sở hạ tầng phù hợp. Pháp luật được coi là tấm gương phản chiếu xã hội, còn về phần mình, xã hội được coi là cơ sở thực tiễn của pháp luật. Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu, đề tài còn sử dụng các phương pháp sau:
- Phương pháp lịch sử được sử dụng khi nghiên cứu, tìm hiểu đánh giá chế độ tài sản chung của vợ chồng qua các thời kỳ lịch sử ở nước ta;
- Phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng khi phân tích các vấn đề liên quan đến chế độ tài sản chung của vợ chồng và khái quát những nội dung cơ bản của từng vấn đề được nghiên cứu trong luận văn;
Có thể bạn quan tâm!
- Chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 - 1
- Cơ Sở Lý Luận Và Thực Tiễn Của Chế Độ Tài Sản Chung Của Vợ Chồng
- Chế Độ Tài Sản Chung Của Vợ Chồng Ở Nước Ta Từ Sau Cách Mạng Tháng Tám (1945) Đến Nay
- Chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 - 5
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
- Phương pháp so sánh được thực hiện nhằm tìm hiểu quy định của pháp luật hiện hành với hệ thống pháp luật trước đây ở nước ta cũng như pháp luật của một số nước khác về chế độ tài sản chung của vợ chồng phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, xã hội và tập quán gia đình truyền thống Việt Nam;
- Phương pháp thống kê được thực hiện trong quá trình khảo sát thực tiễn hoạt động xét xử của ngành Tòa án liên quan đến tranh chấp liên quan đến tài sản chung của vợ chồng. Từ đó, tìm ra mối liên hệ giữa pháp luật với thực tiễn đã phù hợp hay chưa, nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó để đưa ra hướng hoàn thiện chế độ tài sản chung của vợ chồng, nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật về vấn đề này.
6. Những điểm mới của Luận văn
So với các công trình nghiên cứu về Luật HN&GĐ trước đây, luận văn có những điểm mới sau:
- Luận văn là công trình khoa học phân tích một cách toàn diện, đầy đủ và có hệ thống về chế độ tài sản chung của vợ chồng được quy định trong Luật HN&GĐ năm 2000.
- Luận văn phân tích các quy định của pháp luật về chế độ tài sản chung của vợ chồng trong từng thời kỳ lịch sử ở nước ta về chế độ tài sản chung của vợ chồng làm căn cứ cho việc so sánh với quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, từ đó thấy được tính hợp lý và bất hợp lý của chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật HN&GĐ năm 2000.
- Qua việc phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật, Luận văn chỉ rõ các hạn chế, vướng mắc, bất cập và chưa hợp lý của Luật thực định khi điều chỉnh các vấn đề liên quan đến chế độ tài sản chung của vợ chồng. Từ đó, luận văn đưa ra các kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định của Luật HN&GĐ về chế độ tài sản chung của vợ chồng.
7. Ý nghĩa của việc nghiên cứu đề tài
Nội dung của Luận văn có ý nghĩa thiết thực trong công tác phổ biến pháp
luâṭ cho moi
người, đặc biệt là các cặp vợ chồng muốn tìm hiểu chế độ tài sản
chung của vợ chồng; từ đó, nâng cao ý thứ c pháp luâṭ trong viêc
thưc
hiên
pháp
luâṭ HN&GĐ, xây dựng gia đình dân chủ, hòa thuận, hạnh phúc và bền vững.
Chúng tôi hy vọng rằng, luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu giảng dạy, học tập trong các trường Đại học chuyên ngành luật. Đồng thời, những kiến nghị khoa học trong luận văn sẽ góp phần hoàn thiện chế độ tài sản chung của vợ chồng và giải quyết được những
vướng mắc , bất câp chồng hiện nay.
trong viêc
giải quyết những tranh chấp tài sản của vơ
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về chế độ tài sản chung của vợ chồng
Chương 2: Nội dung của chế độ tài sản chung của vợ chồng theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000
Chương 3: Thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ tài sản chung của vợ chồng.
Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ CHẾ ĐỘ TÀI SẢN CHUNG CỦA VỢ CHỒNG
1.1 Khái niệm, đặc điểm của chế độ tài sản chung của vợ chồng
1.1.1. Khái niệm
Gia đình là tế bào của xã hội, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc [15, Điều 1]. Gia đình được xây dựng trên cơ sở các quan hệ hôn nhân, huyết thống và nuôi dưỡng, trong đó quan hệ hôn nhân là nền tảng. Mỗi cặp vợ chồng, ngoài nghĩa vụ yêu thương, quý trọng, chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, còn có nghĩa vụ duy trì cuộc sống và phát triển kinh tế của gia đình. Để cho gia đình tồn tại và phát triển, cần phải thực hiện tốt chức năng kinh tế, tạo cơ sở vật chất nuôi sống gia đình. Chính vì vậy , các nhà làm luật luôn quan tâm và xây dựng các quy điṇ h điều chỉnh các quan hê ̣pháp luâṭ về
HN&GĐ, trong đó chú trong đêń quy điṇ h về chế đô ̣tài sản chung của vơ
chồng. Vì tài sản chung của vợ chồng là cơ sở vật chất quan trọng nhất để vợ chồng cùng nhau xây dựng “tổ ấm” của mình, cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục con cái… Và để đảm bảo nhu cầu vật chất lẫn tinh thần của gia đình, vợ chồng cần thiết phải có quan hệ, trao đổi hoặc giao dịch với rất nhiều chủ thể khác. Khi tham gia các mối quan hệ này, vợ hoặc chồng phải sử dụng đến tài sản chung của mình.
Tài sản chung của vợ chồng cũng là một loại tài sản theo pháp luật dân sự, do đó, quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng cũng được BLDS năm 2005 ghi nhận (Chương XII). Vì vậy, nghiên cứu về vấn đề tài sản chung của vợ chồng phải đặt trong mối liên hệ với chế định tài sản nói chung của BLDS. Theo từ điển tiếng Việt, “tài sản là của cải vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng”. Theo cách hiểu này thì tài sản chỉ là một bộ
phận của thế giới vật chất - vật cụ thể được con người sử dụng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Nếu đặt trong thực tiễn đa dạng và phong phú của các giao dịch dân sự thì cách hiểu này là không phù hợp. Để hoàn thiện khái niệm về tài sản, BLDS năm 2005 đã định nghĩa: “Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản” (Điều 163). Như vậy trên phương diện pháp lý, tài sản đã được định nghĩa một cách đầy đủ và phù hợp hơn.
Xét về mặt lý thuyết, thu nhập hợp pháp người nào tạo ra hoặc có được đều là tài sản thuộc quyền sở hữu của người đó. Tuy nhiên, lý thuyết này không thể áp dụng đối với quan hệ vợ chồng, bởi lẽ kể từ khi quan hệ vợ chồng được xác lập, vợ chồng đều hướng đến một mục tiêu cùng nhau xây dựng gia đình ấm no và hạnh phúc. Chính đặc điểm cơ bản này của gia đình - tính cộng đồng- đòi hỏi cần phải có một chế độ đặc biệt để điều chỉnh quan hệ tài sản của vợ chồng nhằm tạo cơ sở pháp lý đảm bảo cho gia đình được tồn tại và phát triển.
Như vậy, có thể hiểu chế độ tài sản chung của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội liên quan đến tài sản chung của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ, nguồn gốc xác lập tài sản chung, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, các trường hợp và nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng.
Chế độ tài sản chung của vợ chồng được quy định trong pháp luật như là một tất yếu khách quan, nhằm điều chỉnh quan hệ tài sản chung của vợ chồng mà trước hết là xuất phát từ tính chất, mục đích của quan hệ hôn nhân. Để đảm bảo những nhu cầu thiết yếu của gia đình; thoả mãn những nhu cầu về vật chất và tinh thần của vợ, chồng; để thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ nhau; chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cái… không thể không sử dụng đến nguồn tài sản chung của vợ chồng. Do đó, pháp luật cần có những quy định rõ ràng, cụ thể những tài sản nào được xếp vào khối tài sản chung của vợ
chồng; trường hợp nào thì vợ, chồng có quyền sử dụng tài sản chung của họ để tham gia vào các quan hệ cũng như đối tượng tài sản nào được sử dụng phải có sự thỏa thuận và đồng ý của cả hai vợ chồng. Mặt khác, khi hôn nhân không còn tồn tại hoặc vì một lý do chính đáng nào đó, vợ hoặc chồng cần có một khối tài sản riêng biệt để thực hiện quyền và lợi ích chính đáng của mình thì vấn đề chia tài sản chung của vợ chồng cũng cần thiết được đặt ra và phải được quy định cụ thể. Những quy định liên quan đến tài sản chung của vợ chồng nếu phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội sẽ đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình; đồng thời bảo vệ được quyền và của người thứ ba tham gia vào các giao dịch liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.
Ngoài ra, việc pháp luật quy định chế độ tài sản chung của vợ chồng là thật sự cần thiết đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc giải quyết các tranh chấp về tài sản chung giữa vợ chồng với nhau và giữa vợ chồng với người thứ ba có liên quan đến tài sản chung của vợ chồng.
1.1.2. Đặc điểm chế độ tài sản chung của vợ chồng
- Về chủ thể: Để trở thành chủ thể của quan hệ được điều chỉnh bởi chế độ tài sản chung của vợ chồng, các bên phải có mối quan hệ hôn nhân hợp pháp, được pháp luật công nhận là vợ chồng theo pháp luật về HN&GĐ. Theo quy định của pháp luật thì tất cả những tài sản thuộc khối tài sản chung của vợ chồng đều được phát sinh trong thời kỳ hôn nhân. Vì vậy, sự kiện kết hôn là căn cứ cơ bản và trực tiếp làm phát sinh sở hữu chung của vợ, chồng. Và khi hôn nhân chấm dứt cũng là thời điểm chấm dứt chế độ tài sản chung của vợ chồng. Hay nói cách khác, chế độ tài sản chung của vợ chồng chỉ tồn tại trong thời kỳ hôn nhân.
- Về hình thức sở hữu: Theo quy định tại Điều 217 và Điều 219 của BLDS năm 2005 và Khoản 1 Điều 27 Luật HN&GĐ tài sản chung của vợ
chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Theo đó, phần quyền sở hữu của vợ, chồng không được xác định đối với tài sản chung. Vợ chồng cùng nhau tạo lập, phát triển khối tài sản chung bằng công sức của mỗi người; có quyền ngang nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung không phụ thuộc vào công sức đóng góp của vợ, chồng. Trong suốt thời kỳ hôn nhân, có thể do điều kiện sức khỏe, nghề nghiệp dẫn đến thu nhập của mỗi bên vợ, chồng nhiều, ít, có khi là không có thu nhập nhưng không có nghĩa là có sự khác nhau về quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng đối với tài sản chung. Như vậy vợ, chồng có quyền quản lý tài sản chung, cùng khai thác công dụng của tài sản chung và cùng hưởng hoa lợi, lợi tức có được từ tài sản chung, đồng thời các giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung của vợ chồng đều phải có sự thống nhất ý chí của cả vợ và chồng. Tính chất hợp nhất này chỉ tồn tại trong suốt thời kỳ hôn nhân, nếu trong thời kỳ hôn nhân vợ chồng không có thỏa thuận chia toàn bộ khối tài sản chung.
- Việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của các chủ thể có những giới hạn nhất định. Xuất phát từ lợi ích chung của gia đình, pháp luật quy định tài sản chung của vợ chồng chỉ được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ chồng. Việc xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch dân sự liên quan đến tài sản chung có giá trị lớn hoặc là nguồn sống duy nhất của gia đình, việc dùng tài sản chung để đầu tư kinh doanh phải được vợ chồng bàn bạc, thỏa thuận, trừ trường hợp tài sản chung đã được chia trong thời kỳ hôn nhân.
1.2. Ý nghĩa của việc xác định quan hệ tài sản của vợ chồng
Hai người nam nữ khi chưa bước vào hôn nhân, họ là những người có tài sản riêng, hoàn toàn tự do trong việc định đoạt tài sản của mình nhưng khi bước vào hôn nhân, điều đó đã khác. Trong thời kì hôn nhân, hai người phải ràng buộc với nhau bởi rất nhiều bổn phận, nghĩa vụ và quyền
lợi. Lợi ích của họ vì thế đã hòa làm một, đó là lợi ích gia đình. Tài sản chung của vợ chồng chính là thứ cần thiết nhất để tạo điều kiện cho việc nhân danh lợi ích gia đình khi tham gia các giao dịch. Vì vậy, chế độ tài sản chung của vợ chồng cần thiết phải được quy định một cách phù hợp bởi ý nghĩa của nó vô cùng quan trọng.
- Chế độ tài sản chung của vợ chồng là cơ sở để vợ chồng thực hiện quyền dân chủ và bình đẳng trong các quan hệ tài sản, tạo điều kiện khuyến khích vợ chồng có trách nhiệm với gia đình, cùng chung sức và ý chí xây dựng cơ sở vật chất cho cuộc sống gia đình. Bởi chỉ khi vợ chồng bình đẳng trong việc quản lý tài sản chung mới có thể dẫn đến bình đẳng trong các mối quan hệ khác trong gia đình, và đây là cơ sở, là nền tảng để có một gia đình dân chủ, hạnh phúc và bền vững.
- Chế độ tài sản chung của vợ chồng là vấn đề có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội cũng như trong giao lưu dân sự. Xác định quyền sở hữu đối với tài sản chung của vợ chồng không chỉ giúp cho các cặp vợ chồng thực hiện tốt vai trò của người vợ, người chồng trong gia đình mà còn thực hiện vai trò công dân, là thành viên của xã hội. Những quy định này tạo cơ sở pháp lý để vợ chồng chủ động tham gia vào các giao dịch dân sự, thương mại vì lợi ích gia đình cũng như lợi ích cá nhân. “Khi hôn nhân tồn tại, trong trường hợp vợ chồng đầu tư kinh doanh riêng, thực hiện nghĩa vụ dân sự riêng hoặc có lý do chính đáng khác thì vợ chồng có thể thỏa thuận chia tài sản chung” (Khoản 1 Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2000). Vì vậy, vợ và chồng đều có quyền tiến hành các giao dịch liên quan đến tài sản chung và tài sản riêng của mình. Quyền độc lập về tài sản tạo cơ sở để vợ, chồng chủ động tham gia vào các giao dịch dân sự với tư cách là các chủ thể độc lập. Tuy nhiên, tính độc lập trong giao lưu dân sự của vợ, chồng chỉ là độc lập tương đối vì luôn chịu sự ràng buộc từ lợi ích gia đình. Lợi ích gia đình luôn