Theo hợp đồng mua bán căn nhà số 24 A Bùi Thị Xuân, phường Mỹ Long thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang ngày 3-01-2001 lập tại Phòng Công chứng Nhà nước thì vợ chồng ông Vương Tấn Dũng, bà Phạm Thị Nga thỏa thuận bán nhà cho vợ chồng ông Lâm Đức Trung, bà Văng Thị Bạch Tuyết với giá 300.000.000 đồng. Ngày 28-02-2001 ông Lâm Đức Trung được UBND tỉnh An Giang cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với căn nhà nêu trên. Trong khi bán nhà cho ông Trung, thì ông Dũng vẫn đang cho bà Nguyễn Kim Hoàng thuê. Ngày 6-3-2001 ông Trung lại lập hợp đồng bán căn nhà trên cho bà Kha Thị Hiếng với giá 345.000.000 đồng. Do đó ông Trung đã khởi kiện xin hủy hợp đồng mua bán nhà với ông Trung vì cho rằng ông bị ông Trung ép buộc bán nhà trừ nợ và nhà đất là tài sản của vợ chồng ông và bà Nga, hợp đồng mua bán nhà có chữ ký của bà Nga, ông Dũng xin hoàn lại tiền bán nhà cho ông Trung.
Căn cứ vào kết luận giám định số 1017 ngày 15-4-2002 của Viện khoa học hình sự Bộ Công an thì chữ ký trong hợp đồng mua bán nhà giữa ông Dũng, bà Nga với ông Trung, bà Tuyết không phải chữ ký của bà Nga, nên Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đều xác định hợp đồng mua bán nhà giữa ông Dũng với vợ chồng ông Trung là vô hiệu. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 147/DSPT ngày 16-4-2003 của Tòa án nhân dân tỉnh An Giang nhận định để đảm bảo việc thi hành án nên tuyên xử buộc vợ chồng ông Dũng và bà Nga cùng liên đới hoàn trả cho vợ chồng ông Trung 300.00.000 đồng tiền bán nhà đã nhận và tiền chênh lệch 1/2 giá trị căn nhà là 191.807.000 đồng.
Một vụ án khác, ngày 16-3-2000 ông Nguyễn Văn Can lập hợp đồng bán cho anh Doãn Hữu Hùng căn nhà tại tổ 6, khu 5, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hạ Lông, tỉnh Quang Ninh là tài sản chung của vợ chồng ông và bà Ngô Thị Lý với giá 34.500.000 đồng, không có sự đồng ý của bà Lý. Do đó bà Lý dã khởi kiện đòi anh Hùng phải trả lại nhà cho bà. Ông Can và anh
Hùng đều thừa nhận việc mua bán nhà chưa có sự đồng ý của bà Lý, tiền bán nhà ông Can đã sử dụng. Anh Hùng đề nghị được tiếp tục thực hiện hợp đồng, trường hợp phải trả lại nhà thì yêu cầu ông Can, bà Lý phải trả cho anh tiền mua nhà và tiền sửa chữa nhà mà anh đã bỏ ra là 28.000.000 đồng. Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm đều xác định hợp đồng mua bán nhà giữa ông Can với ông Hùng là vô hiệu. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 11/DSPT ngày 6-3- 2002 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Ninh đã quyết định: Buộc anh Hùng phải trả cho bà Lý, ông Can căn nhà tại tổ 6, khu 5, phường Trần Hưng Đạo, thành phố Hạ Lọng, tỉnh Quảng Ninh. Buộc ông Can phải trả cho anh Hùng
34.500.000 đồng. Vợ chồng bà Lý, ông Can có trách nhiệm liên đới thanh toán tiền sửa chữa nhà cho anh Hùng 19.000.000 đồng (vì bà Lý, ông Can cùng được nhận lại nhà, thì cùng phải liên đới thanh toán cho anh Hùng tiền sửa chữa nhà).
Như vậy, qua các ví dụ nêu trên đều cho thấy: các hợp đồng dân sự đều được một bên vợ hoặc chồng xác lập liên quan đến tài sản chung của vợ chồng các hợp đồng dân sự đó đều bị Tòa án các cấp tuyên bố vô hiệu là đúng. Song việc xác định trách nhiệm liên đới của vợ chồng đối với hợp đồng dân sự do một bên thực hiện và việc xử lý hậu quả pháp lý của hợp đồng vô hiệu là khác nhau.
3.1.4. Thực tiễn áp dụng việc chia tài sản chung khi vợ hoặc chồng chết
Khác với nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn được quy định khá chi tiết thì nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi một bên chết trước hoặc bị Tòa án tuyên bố là đã chết lại không được quy định trong Luật HN&GĐ năm 2000. Thực tiễn xét xử cho thấy, trong trường hợp này, Tòa án thường chia đôi tài sản chung của vợ chồng mà không tính đến công sức đóng góp của các bên trong việc tạo lập, duy trì và phát triển tài sản chung (đây là nguyên tắc được quy định trong Luật HN&GĐ năm 1986).
Ví dụ, vụ tranh chấp tài sản giữa chị P (con vợ hai) và chị G (vợ cả) về tài sản thừa kế của ông V. Trước khi kết hôn, ông V đã lập di chúc cho chị P được hưởng toàn bộ di sản của mình trong khối tài sản chung của ông với bà G bao gồm: nhà và quyền sử dụng 200m2 đất. Chị G cho rằng nhà và quyền sử dụng đất này là tài sản riêng của bà G vì đất này là do bà G lấn chiếm được trong thời gian ông ở với vợ hai và giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà. Sau khi bản án sơ thẩm của TAND Quận Tân Bình xác định nhà và quyền sử dụng đất là tài sản riêng của bà G, chị P đã viết đơn kháng cáo và được TAND Thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm. Tòa nhận định: 70
m2 đất được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là tài sản chung của ông
Có thể bạn quan tâm!
- Chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 - 9
- Chia Tài Sản Chung Khi Một Bên Vợ, Chồng Chết Trước Hoặc Bị Tòa Án Tuyên Bố Là Đã Chết
- Chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 - 11
- Chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 - 13
- Chế độ tài sản chung của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 - 14
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
V và bà G, do đó, tài sản này được chia đôi mỗi người một nửa. Phần này được xác định vào khối di sản của ông V để phân chia thừa kế. Sau đó, Hội đồng giám đốc thẩm Tòa Dân sự TANDTC đã họp và nhận định bà G có công sức tạo lập chủ yếu lại chỉ được hưởng một nửa tài sản ngang với ông V là không thỏa đáng. TANDTC đã ra quyết định hủy án sơ thẩm, phúc thẩm giao cho TAND Quận Tân Bình xét xử lại. Tháng 9/2008, TAND Quận Tân Bình xét xử lại sơ thẩm, sau khi xem xét công sức đóng góp của bà G đã đưa ra quyết định chia tài sản này theo tỷ lệ 7:3, bà G được hưởng 7 phần, còn di sản của ông V chỉ có 3 phần.
Qua vụ án trên cho thấy, một trong những lý do mà TANDTC hủy án là việc chia tài sản chung của vợ chồng chưa xem xét đến công sức đóng góp của bà G. Đứng trước một vấn đề mà pháp luật đang còn “bỏ ngỏ” thì sự khác nhau trong hướng giải quyết của Tòa án là điều khó tránh khỏi. Chính vì vậy, Tòa án các cấp có thể lúng túng trong việc lựa chọn hướng giải quyết khi phải xét xử những vụ án chia tài sản chung của vợ chồng trong tình huống này. Vì vậy, câu hỏi “tài sản chung của vợ chồng trong trường hợp một bên vợ, chồng chết trước được chia như thế nào?”, “có xem xét đến công sức
đóng góp của mỗi bên hay không?” cần phải được trả lời bằng một quy định cụ thể trong các văn bản pháp luật về HN&GĐ để Tòa án có cơ sở pháp lý áp dụng thống nhất.
3.1.5. Thưc
tiên
á p dun
g phá p luât
trong viêc
giải quyết tranh chấp
nhà ở và quyền sử dụng đất của vợ chồng
Trong khối tài sản chung của vợ chồng thông thường thì nhà, đất là tài sản có giá trị lớn hoặc rất lớn. Do đó, khi vợ chồng ly hôn việc phân chia nhà, đất thường rất khó khăn, phức tạp và thường diễn ra gay gắt nhất. Hai bên không tự thỏa thuận phân chia được mà đều phải do Tòa án quyết định và không phải quyết định một lần mà phải nhiều lần, nhiều cấp, kéo dài trong nhiều năm. Đã có nhiều hướng dẫn của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về vấn đề này, ngoài ra hàng năm TANDTC còn có tổng kết rút kinh nghiệm. Song thực tế xét xử loại việc trên vẫn chưa thống nhất, một số trường hợp giải quyết chưa hợp lý, hợp tình và chưa sát thực tế nên quyền lợi của vợ, chồng và con cái chưa được đảm bảo. Vì là tài sản có giá trị lớn, thời gian hình thành tài sản thường là lâu dài, bản thân nguồn gốc của loại tài sản này trong từng thời kỳ lịch sử lại khá phức tạp nên việc thu thập chứng cứ để chứng minh nguồn gốc tài sản là rất khó khăn.
Trong những năm vừa qua, tranh chấp liên quan đến tài sản của vợ chồng là nhà ở và quyền sử dụng đất luôn là tranh chấp gay gắt và phức tạp (đặc biệt trong các vụ kiện ly hôn). Để tạo căn cứ pháp lý thống nhất trong việc xác định tài sản của vợ chồng là nhà ở và quyền sử dụng đất, lần đầu tiên Luật HN&GĐ năm 2000 (Khoản 1 Điều 27, Điều 97, 98, 99), Nghị định số 70/2001/NĐ-CP (từ Điều 23 đến 30) và một số văn bản hướng dẫn có liên quan đã qui định một số chế độ pháp lý riêng về quyền sử dụng đất và các nguyên tắc chia tài sản là nhà ở và quyền sử dụng đất khi ly hôn. Đó là một thuận lợi rất lớn về căn cứ pháp lý cho Tòa án các cấp giải quyết tranh chấp có liên quan. Tuy nhiên qua thực tiễn xét xử loại việc này vẫn tồn tại các vấn đề sau:
- Trong thực tiễn, một số lượng lớn nhà ở và quyền sử dụng đất của công dân nói chung và của vợ chồng nói riêng có nguồn gốc rất phức tạp. Những tài sản đó vợ chồng có thể có chuyển quyền hợp pháp, nhưng cũng có thể là không hợp pháp hoặc chưa có sự thừa nhận của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền hoặc tài sản thuộc sở hữu của người khác… Vì vậy, tranh chấp quyền sử dụng đất có tính liên quan đến cả thẩm quyền quản lý Nhà nước đất đai của cơ quan hành chính Nhà nước và thẩm quyền xét xử của TAND. Do đó, việc giải quyết các tranh chấp đất đai, một phần thuộc thẩm quyền của cơ quan hành chính Nhà nước, một phần thuộc thẩm quyền của TAND và pháp luật hiện hành đã qui định cụ thể vấn đề này. Theo quy định của pháp luật, trong giải quyết tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, Tòa án cần áp dụng hai nguyên tắc:
+ Thứ nhất: Tòa án chỉ có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về đất có giấy chứng nhận quyền sử dụng hợp pháp và tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất đó. Nguyên tắc là vậy, song trong thực tiễn xét xử một số Tòa án đã giải quyết cả những tranh chấp không thuộc các trường hợp trên, dẫn đến vi phạm pháp luật về tố tụng, gây khó khăn cho công tác quản lý Nhà nước về đất đai cũng như ảnh hưởng đến quyền lợi của các đương sự.
Ví dụ: Tháng 2/2001 TAND huyện Gia Lâm – Hà Nội giải quyết việc ly hôn giữa chị Nguyễn Thị Kim N. và anh Đặng Văn P. Giữa các đương sự có tranh chấp mảnh đất 120m2 tại thôn Kim Âu, theo Ủy ban nhân dân xã thì đất này là đất chuyển nhượng chưa hợp pháp, chưa có giấy tờ chứng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên Tòa án sơ thẩm vẫn tổ chức định giá xác định tài sản chung của vợ chồng và chia cho chị N. sử dụng. Bản án phúc thẩm số 37/PTDS ngày 13/04/2001 của TAND thành phố Hà Nội đã phải sửa án sơ thẩm, tách việc giải quyết mảnh đất 120m2 để hai bên tự thỏa thuận, nếu không tự thỏa thuận được, việc tranh chấp thuộc thảm quyền của Ủy ban nhân dân giải quyết.
+ Thứ hai: Tòa án chỉ phân chia nhà ở hoặc quyền sử dụng đất khi vợ chồng có quyền sở hữu hoặc quyền sử dụng hợp pháp đối với tài sản đó. Tuy nhiên, một số Tòa án đã không bám sát nguyên tắc này dẫn đến chia nhà ở và quyền sử dụng đất cho vợ chồng trong khi họ không có chủ quyền hợp pháp đối với tài sản có tranh chấp. Ví dụ: tháng 5/2001 TAND huyện Đông Anh - Hà Nội đã giải quyết việc ly hôn giữa anh Nguyễn Duy Lương và chị Đỗ Thị Dần, trong đó các đương sự có tranh chấp mảnh đất mà vợ chồng họ đang ở. Chị Dần có yêu cầu chia một phần mảnh đất này, nguồn gốc của mảnh đất này là do bố mẹ anh Lương (bà Chải, ông Viêm) là chủ hộ được cấp đất giản dân từ 1980. Ông Viêm mất năm 1986, năm 1994 sau khi kết hôn anh Lương và chị Dần về sống cùng với bà Chải trên mảnh đất đó. Như vậy, mảnh đất đang có tranh chấp thuộc thẩm quyền sử dụng hợp pháp của bà Chải. Tuy nhiên, Tòa án sơ thẩm đã bác yêu cầu của bà Chải về sử dụng đất và chia đất cho chị Dần. Bản án phúc thẩm số 52/ LHPT của TAND thành phố Hà Nội đã hủy phần bản án về nhà, đất để Tòa án cấp sơ thẩm điều tra, xét xử lại.
Tranh chấp về nhà ở và quyền sử dụng đất giữa vợ và chồng khi ly hôn đã phức tạp lại càng phức tạp hơn khi tài sản có tranh chấp không thể chia được bằng hiện vật cho các bên, mà chỉ một bên nhà hoặc đất còn bên kia được nhận bằng phần giá trị chênh lệch thanh toán bằng tiền (tính theo giá giao dịch thực tế trên thị trường). Tính phức tạp thể hiện ở chỗ các bên đều muốn được chia bằng hiện vật không muốn nhận tài sản theo giá trị vì sợ thiệt thòi, hoặc khi đã xác định được bên nào nhận nhà hoặc đất thì họ lại muốn định giá tài sản đó thấp hơn giá trị thực tế còn bên kia đương nhiên là không đồng ý. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào Hội đồng định giá. Chính vì vậy, TANDTC trong những năm qua đã có nhiều văn bản hướng dẫn, nhưng nhìn chung còn mất nhiều thời gian để giải quyết vấn đề nổi cộm này.
Tóm lại, với sự phát triển nhanh chóng của nền kinh tế, các quan hệ tài
sản của vợ chồng diễn ra nhanh chóng và thường xuyên biến đổi đã và đang làm phát sinh những vấn đề mới mà pháp luật chưa kịp điều chỉnh hoặc chưa bao quát hết. Bên cạnh đó, một số quy định đã có nhưng còn chung chung, chưa cụ thể hoặc không phù hợp với thực tiễn. Những vấn đề trên đã khiến cho việc áp dụng pháp luật về chia tài sản chung của vợ chồng gặp nhiều khó khăn, vướng mắc và đặt ra yêu cầu sửa đổi hoàn thiện pháp luật cũng như tìm giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trên thực tế.
3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện chế độ tài sản chung của vợ chồng trong Luật HN&GĐ năm 2000
Chế độ tài sản chung của vợ chồng theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 có thể nói là tương đối cụ thể và rõ ràng. Tuy nhiên cũng có những điểm bất cập mà theo chúng tôi pháp luật về HN&GĐ cần phải sửa đổi, bổ sung và một số quy định cần được hướng dẫn cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định của Luật HN&GĐ.
3.2.1. Quy điṇ h về căn cứ xá c điṇ h tài sản chung của vợ chồng
Theo quy định tại Điều 27 Luật HN&GĐ năm 2000, căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng trên cơ sở thời kỳ hôn nhân, bao gồm: Tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh và những thu nhập hợp pháp khác của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân. Tuy nhiên, trong một số trường hợp cụ thể, một số tài sản, thu nhập hợp pháp của vợ chồng, xét về nguyên tắc, là tài sản chung của vợ chồng nhưng chưa được pháp luật quy định hoặc có quy định nhưng chưa hợp lý, cụ thể là:
Đối với trường hợp vợ hoặc chồng trúng số, nếu có chứng cứ hợp pháp chứng minh được rằng mình được người khác tặng cho vé số đó thì pháp luật nên quy định đây là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Quy định như vậy là hoàn toàn phù hợp với chế độ tài sản của vợ chồng theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000.
Điều 32 quy định đồ dùng, tư trang cá nhân là tài sản riêng của vợ, chồng. Quy định này là cần thiết để đảm bảo quyền tự do cá nhân và cuộc sống riêng tư của vợ, chồng. Tuy nhiên, nếu không có hướng dẫn cụ thể tài sản nào được coi là đồ dùng, tư trang cá nhân thì rất dễ gây tranh chấp khi chia tài sản của vợ chồng. Vì trong thực tế, có nhiều đồ dùng, tư trang cá nhân có được từ tài sản chung là những đồ vật quý, có giá trị lớn, thậm trí giá trị của chúng còn lớn hơn nhiều so với thu nhập và khối tài sản chung của vợ chồng. Đối với trường hợp này, nếu coi những tài sản này là tài sản riêng của một bên thì sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới lợi ích của bên kia, cũng như lợi ích của gia đình. Để đảm bảo tính công bằng về quyền sở hữu của vợ chồng, cần giới hạn đồ dùng, tư trang cá nhân là tài sản riêng của vợ, chồng theo hướng: Ngoài những đồ dùng, tư trang cá nhân có nguồn gốc từ tài sản riêng, vợ, chồng có quyền sở hữu riêng đối với đồ dùng, tư trang cá nhân có nguồn gốc từ tài sản chung, nếu tài sản đó phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày hoặc mang tính chất kỷ niệm và có giá trị không lớn so với khối tài sản chung của vợ chồng.
Theo khoản 1 Điều 27, quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng. Tuy nhiên, đối với quyền sử dụng đất có được trong thời kỳ hôn nhân mà nguồn gốc tài sản này là từ tài sản riêng của vợ hoặc chồng thì về nguyên tắc phải là tài sản riêng của vợ hoặc chồng. Vì vậy, Khoản 1 Điều 27 cần sửa đổi theo hướng: quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp quyền sử dụng đất có được từ nguồn gốc tài sản riêng của vợ, chồng.
Đối với thu nhập có được do được bồi thường thiệt hại về sức khỏe, về uy tín danh dự: Đây là những tài sản gắn liền với nhân thân của mỗi người, theo pháp luật dân sự là tài sản riêng của mỗi người, khoản tiền này được bồi thường nhằm mục đích phần nào giúp đỡ những người bị xâm hại về sức