Quy Định Chung Áp Dụng Bắt Buộc Đối Với Vợ Chồng

chồng), từ Điều 33 đến Điều 46 (chế độ hôn sản pháp định), từ Điều 47 đến Điều 50 (chế độ hôn sản thỏa thuận).

Đặc biệt, Luật HN&GĐ năm 2014 là văn bản lần đầu tiên chính thức ghi nhận chế độ hôn sản theo thỏa thuận bên cạnh chế độ hôn sản pháp định đã được ghi nhận trong các văn bản trước đó. Luật HN&GĐ năm 2014 kế thừa, sửa đổi các quy định của Luật HN&GĐ năm 2000, đồng thời có bổ sung một số quy định mới, trong đó có nguyên tắc áp dụng chế độ tài sản của vợ chồng.

So với Luật HN&GĐ năm 2000, các quy định về chế độ hôn sản trong Luật HN&GĐ năm 2014 đầy đủ, chi tiết và rõ ràng hơn và khắc phục những hạn chế của Luật HN&GĐ năm 2000.


Chương 2

NỘI DUNG CHẾ ĐỘ HÔN SẢN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

2.1. Quy định chung áp dụng bắt buộc đối với vợ chồng

Để thống nhất nhận thức về chế độ hôn sản, bảo vệ lợi ích chung của gia đình, Luật HN&GĐ năm 2014 bổ sung thêm nhiều quy định về chế độ hôn sản, trong đó có quy định chung áp dụng bắt buộc đối với mọi quan hệ vợ chồng.

2.1.1. Nguyên tắc tôn trọng ý chí chung của vợ chồng

Tiếp thu tư tưởng tiến bộ trong hệ thống pháp luật của các nước phương Tây cũng như xây dựng hệ thống pháp luật đáp ứng được các yêu cầu của xã hội Việt Nam theo xu hướng hội nhập quốc tế, Luật HN&GĐ năm 2014 bổ sung quy định cho phép vợ chồng có quyền lựa chọn áp dụng chế độ hôn sản luật định hoặc chế độ hôn sản theo thỏa thuận (Điều 28). Trong trường hợp vợ chồng không lựa chọn áp dụng chế độ hôn sản theo thỏa thuận thì chế độ hôn sản luật định sẽ được áp dụng.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Trước đây, chế độ hôn sản theo thỏa thuận “du nhập” và bị “trục xuất” khỏi Việt Nam một cách “lặng lẽ”. Vì vậy, chế độ hôn sản chính thống được áp dụng cho chế độ tài sản của vợ chồng là chế độ hôn sản luật định. Theo đó, Luật HN&GĐ năm 2000 cũng chỉ quy định và áp dụng một chế độ hôn sản duy nhất đối với quy định chế độ tài sản của vợ chồng trong hôn nhân là chế độ hôn sản luật định. Các căn cứ xác định tài sản của vợ chồng, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản đó, cũng như trong việc thực hiện các giao dịch giữa vợ chồng với người thứ ba … được pháp luật dự liệu và chịu sự điều chỉnh mang tính bắt buộc của luật pháp.

Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014, nếu vợ chồng lựa chọn áp dụng chế độ hôn sản theo thỏa thuận thì họ phải lập văn bản thỏa thuận theo các quy định của Luật; đây là cơ sở cho việc thực hiện và giải quyết tranh chấp về chế độ tài sản của vợ chồng. Trường hợp vợ chồng không có thỏa thuận về việc áp dụng chế độ tài sản nào thì các vấn đề trong chế độ tài sản của họ sẽ tuân theo chế độ tài sản luật định và việc giải quyết các vấn đề phát sinh liên quan đến tài sản của vợ chồng sẽ áp dụng theo các quy định của pháp luật.

Chế độ hôn sản trong Luật hôn nhân và gia đình năm 2014 1697215839 - 6

Tuy nhiên, việc tạo điều kiện cho vợ chồng tự do định đoạt tài sản của mình phải trong giới hạn nhất định theo quy định của pháp luật và phù hợp với thuần phong mỹ

tục. Để tránh tình trạng lợi dụng quy định của pháp luật nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của vợ chồng và bảo vệ tối đa lợi ích của gia đình và các thành viên trong gia đình, nhà làm luật đã dự liệu và quy định trong một số trường hợp việc giải quyết vấn đề liên quan đến tài sản của vợ chồng không phụ thuộc vào chế độ hôn sản mà vợ chồng đã lựa chọn.

Tương tự như các nước phương Tây, Luật HN&GĐ hiện hành dự liệu chế độ hôn sản pháp định như một giải pháp dự phòng thay thế khi vợ chồng không lựa chọn chế độ hôn sản theo thỏa thuận hoặc có thỏa thuận nhưng thỏa thuận ấy bị vô hiệu theo quy định của Luật.

2.1.2. Nguyên tắc chung về chế độ hôn sản

Điều 29 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:

1. Vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập.

2. Vợ, chồng có nghĩa vụ bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.

3. Việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường

Việc quy định nguyên tắc chung về chế độ hôn sản trong Luật HN&GĐ là một bảo đảm pháp lý vững chắc về quyền bình đẳng giữa vợ và chồng trong quan hệ hôn nhân, trong việc thực hiện các quyền cũng như nghĩa vụ đối với hôn sản cũng như. Trên cơ sở các quy định mang tính nguyên tắc của luật, các hành vi liên quan đến tài sản của vợ chồng được pháp luật điều chỉnh ứng xử theo những khuôn mẫu nhất định, đảm bảo lợi ích của gia đình, của vợ chồng cũng như lợi ích của người thứ ba.

Trong lĩnh vực HN&GĐ, nhìn chung quyền bình đẳng giữa vợ và chồng được đề cập khá chi tiết trong các quy định của pháp luật và có xu hướng ngày càng hoàn thiện hơn.

Trong quan hệ tài sản, vợ, chồng bình đẳng với nhau về quyền, nghĩa vụ trong việc tạo lập, chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập [38, khoản 1,Điều 29]. Sự phân công lao động trong gia đình xét về trực quan thể hiện sự bất bình đẳng giữa người chồng và

người vợ, người vợ luôn là người chịu nhiều thiệt thòi. Tuy nhiên, xét về bản chất, đó là sự phân công lao động hợp lý, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của mỗi cặp vợ chồng và của gia đình. Vợ, chồng tùy theo khả năng và điều kiện của mình có quyền và nghĩa vụ trực tiếp tham gia lao động, tạo ra thu nhập nhằm nuôi sống gia đình. Thu nhập đó có thể do hai vợ chồng hoặc chủ yếu do một bên vợ hoặc một bên chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân nhưng đều được ghi nhận là tài sản chung của hai vợ chồng. Vợ, chồng bình đẳng nhau trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt khối tài sản chung đó mà không có sự phân biệt về công sức người làm ít, người làm nhiều; không phân biệt giữa lao động trong gia đình và lao động có thu nhập. Gia đình là tổ ấm chung, vợ chồng có trách nhiệm phân công lao động cùng nhau xây dựng tổ ấm, có thể người này được phân công lao động để tạo ra tài sản còn người kia có nghĩa vụ thực hiện các công việc khác để đảm bảo sự ổn định của gia đình (như lo nội trợ, nuôi dạy con cái, chăm sóc bố mẹ già ..). Do đó, vợ và chồng mỗi người một công việc, mỗi người một thu nhập có sự nhiều ít khác nhau hoặc có thể không có nhưng đều góp công sức trong việc duy trì, ổn định và phát triển gia đình cả về vật chất lẫn tinh thần.

Hoạt động lao động, tạo lập tài sản của vợ chồng suy cho cùng, trước hết nhằm mục đích đáp ứng những nhu cầu tối thiểu của gia đình. Pháp luật quy định, việc bảo đảm điều kiện để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình chính là nghĩa vụ của vợ, chồng [38, khoản 2, Điều 29] mà không phụ thuộc vào ý chí (dù muốn hay không muốn) của nhân cá họ. Nhu cầu thiết yếu là nhu cầu sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học tập, khám bệnh, chữa bệnh và nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho cuộc sống của mỗi người, mỗi gia đình [39, Điều 3]. Các tiêu chí của nhu cầu sinh hoạt thiết yếu có thể thay đổi theo sự phát triển của xã hội tiêu thụ. Tính chất thiết yêu của nhu cầu sinh hoạt gắn liền với tính chất hợp lý của nhu cầu đó và của sự chi tiêu. Nói cách khác, việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình phải được thực hiện trong phạm vi cho phép của ngân sách ổn định của gia đình và vợ chồng có nghĩa vụ đảm bảo điều kiện để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu tối thiếu đó.

Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản nhằm đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của gia đình và những nhu cầu khác của vợ, chồng. Với tư cách là một chủ thể độc lập trong các mối quan hệ và giao dịch dân sự khác, việc thực hiện quyền, nghĩa vụ về tài sản của vợ chồng mà xâm phạm đến quyền, lợi ích hợp pháp của vợ, chồng, gia đình và của người khác thì phải bồi thường (khoản 3 Điều 29). Việc bồi thường thiệt hại được xem xét trên yếu tố lỗi để xác định

tài sản thực hiện nghĩa vụ là tài sản chung của vợ chồng hay tài sản riêng của vợ, chồng.

2.1.3. Quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình

Trong điều kiện kinh tế thị trường, việc duy trì và phát triển đời sống gia đình đã thúc đẩy vợ, chồng tham gia rộng rãi vào các giao dịch kinh tế hoặc dân sự. Tài sản chung của vợ và chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất. Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ ngang nhau đối với tài sản chung (ngang nhau trong việc chiến hữu, sử dụng, định đoạt tài sản chung). Tài sản chung của vợ và chồng được chi dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện các nghĩa vụ chung của vợ, chồng.

Điều 30 Luâṭ HN &GĐ năm 2014 quy điṇ h về quyền , nghĩa vụ của vợ , chồng

trong viêc

đáp ứ ng nhu cầu thiết yếu của gia đình , như sau:

1. Vợ, chồng có quyền, nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình.

2. Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên.

Điều này đã khẳng điṇ h vơ, chồng có quyêǹ t ự mình thực hiện các giao dịch

nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình , đồng thời cũng xác điṇ h trách nhi ệm liên đới về nghĩa vụ phát sinh từ những giao dịch này đối với người vợ, chồng không thực hiện giao dịch.

Vợ, chồng có quyền và nghĩa vụ thực hiện giao dịch nhằm đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình . Trên thực tế, các giao dịch dù lớn hay nhỏ hoặc không đáng kể vẫn được vợ, chồng thực hiện hằng ngày nhằm đáp ứng nhu cầu cho gia đình. Nhu cầu thiết yếu của gia đình có thể là những nhu cầu hằng ngày (như ăn uống), hay nhu cầu hàng tháng (như chi phí điện, nước, giáo dục …) hoặc chi phí phát sinh đột ngột (chi phí thuốc men, khám chữa bệnh). Những nhu cầu này trực tiếp liên quan đến lợi ích cá nhân vợ, chồng cũng như các thành viên trong gia đình và là nghĩa vụ, trách nhiệm của vợ chồng đối với gia đình, cho nên vợ chồng luôn luôn phải thực hiện các giao dịch để đáp ứng những nhu cầu đó. Đó là những nhu cầu không thể thiếu để gia đình và các thành viên trong gia đình tồn tại và phát triển.

Các nhu cầu thiết yếu của gia đình trước hết được đáp ứng bằng tài sản chung. Trong trường hợp vợ chồng không có tài sản chung hoặc tài sản chung không đủ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng theo khả năng kinh tế của mỗi bên. Thực tế, tài sản chung dùng để chi phí cho các nhu cầu thiết yếu của gia đình thường là tài sản chung có nguồn gốc từ thu nhập của vợ, chồng. Các tài sản ấy, dù là của chung, cũng có thể được người tạo ra chúng (người có thu nhập) tự mình sử dụng, định đoạt trong chừng mực hợp lý để đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt riêng, mà không cần hỏi ý kiến của vợ (chồng). Thu nhập của một người được đóng góp vào tài sản chung của gia đình và phải được ưu tiên sử dụng để thanh toán các chi phí nhằm đáp ứng các nhu cầu thiết yếu của gia đình. Nếu thu nhập và các tài sản chung khác không đủ để trang trải chi phí thì tài sản riêng của vợ, chồng cũng được sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu. Vợ, chồng, trên nguyên tắc, có trách nhiệm đóng góp ngang nhau trong việc thanh toán các chi phí ấy. Tuy nhiên, vấn đề là thu nhập và khối tài sản riêng của mỗi người thường không phải trong mọi trường hợp đều ngang nhau. Do vậy, việc đóng góp tài sản riêng của mỗi bên vợ, chồng sử dụng vào các nhu cầu thiết yếu của gia đình dựa tình hình tài sản riêng của mỗi bên và trên cơ sở thỏa thuận của vợ chồng. Nếu một người không có tài sản riêng, thì người còn lại chịu trách nhiệm thanh toán chi phí bằng tài sản riêng của mình.

2.1.4. Giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng

Quyền có nơi ở hợp pháp là một trong những quyền cơ bản của công dân được Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận và bảo hộ [26 Điều 22]. Nơi ở của vợ, chồng là nơi cư trú hằng ngày của vợ chồng, là nơi đảm bảo nhu cầu thiết yếu về chỗ ở cho gia đình và các thành viên của gia đình. Việc có một nơi cư trú không chỉ đảm bảo vợ chồng có cuộc sống ổn định mà còn là nơi vợ chồng cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con cái. Nơi ở của vợ, chồng có thể thuộc sở hữu chung của vợ chồng, có thể thuộc sở hữu riêng của một bên vợ, chồng.

Theo quy định của pháp luật, nhà ở là loại tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng; nếu là tài sản chung thì việc đăng ký phải được ghi tên của cả hai vợ chồng và khi xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Thỏa thuận phải phù hợp với quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản chung của vợ chồng theo quy định của pháp luật .

Điều 31 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng:

Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt các giao dịch liên quan đến nhà là nơi ở duy nhất của vợ chồng phải có sự thỏa thuận của vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng.

Nhu cầu về chỗ ở là nhu cầu thiết yếu của gia đình, việc bảo đảm điều kiện đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình là nghĩa vụ của vợ chồng. Trong trường hợp nhà ở thuộc sở hữu riêng của vợ hoặc chồng thì chủ sở hữu có quyền xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài sản đó nhưng phải bảo đảm chỗ ở cho vợ chồng. Quy định này phù hợp với các quy định về quyền, nghĩa vụ của vợ, chồng trong việc đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình; khi tài sản chung không có hoặc không đủ để đáp đáp ứng nhu cầu thiết yếu của gia đình thì vợ, chồng tùy theo khả năng kinh tế của mỗi bên có nghĩa vụ đóng góp tài sản riêng để đáp ứng những nhu cầu thiết yếu đó.

2.1.5 Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng

Điều 32 Luâṭ HN &GĐ năm 2014 quy điṇ h Giao dịch với người thứ ba ngay tình liên quan đến tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán và động sản khác mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng như sau:

1. Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó.

2. Trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp Bộ luật dân sự có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình.

Trong giao dịch dân sự, người thứ ba ngay tình được hiểu là người chiếm hữu không có căn cứ pháp lý đối với tài sản nhưng không biết và không thể biết việc chiếm hữu tài sản đó là không có căn cứ pháp luật [29Điều 189]. Hiện nay, trong điều kiện kinh tế thị trường, tự do thông thương, giao lưu hàng hóa, sự phổ biến của các tổ chức tài chính cũng như các sàn giao dịch chứng khoán việc cá nhân sở hữu một tài khoản ngân hàng hoặc tài khoản chứng khoán để giao dịch, kinh doanh là hết sức phổ biến. Những tài khoản ngân hàng và tài khoản chứng khoán này có thể được tạo lập trong thời kỳ hôn nhân và là tài sản chung của vợ chồng, nhưng việc đăng ký quyền sở hữu, quyền sử dụng lại chỉ ghi tên một người vợ hoặc chồng. Về mặt pháp lý khi giao dịch với người thứ ba ngay tình họ là người có quyền xác lập, thực hiện và chấm dứt giao dịch và người thứ ba biết rằng người đó chính là chủ tài khoản đã được đăng ký. Tuy nhiên, nếu là tài sản chung thì việc xác lập, thực hiện, chấm dứt giao dịch liên quan đến tài khoản này phải có sự thỏa thuận của vợ, chồng thì mới được coi là hợp pháp. Nhưng trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng là người đứng tên tài khoản ngân hàng, tài khoản chứng khoán được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó [38, khoản 1 Điều 32]. Trong trường hợp giao dịch bị vô hiệu, có tranh chấp xảy ra thì quyền lợi của người thứ ba ngay tình vẫn được pháp luật bảo vệ.

Đối với tài sản là động sản, trong giao dịch với người thứ ba ngay tình thì vợ, chồng đang chiếm hữu động sản mà theo quy định của pháp luật không phải đăng ký quyền sở hữu được coi là người có quyền xác lập, thực hiện giao dịch liên quan đến tài sản đó trong trường hợp BLDS có quy định về việc bảo vệ người thứ ba ngay tình [38, khoản 2 Điều 32]. Liên quan đến vấn đề này, theo quy định tại Điều 138 BLDS thì quyền lợi của người thứ ba ngay tình được pháp luật bảo vệ khi giao dịch dân sự vô hiệu nhưng tài sản giao dịch là động sản không phải đăng ký quyền sở hữu đã được chuyển giao bằng một giao dịch khác cho người thứ ba ngay tình thì giao dịch với người thứ ba vẫn có hiệu lực, trừ trường hợp chủ sở hữu đòi lại tài sản theo quy định của pháp luật.

Như vậy, trong một số giao dịch giữa người thứ ba ngay tình với vợ, chồng thì quyền lợi của người thứ ba ngay tình luôn được pháp luật bảo vệ mà không phụ thuộc vào tính hợp pháp của giao dịch đó.

Xem tất cả 121 trang.

Ngày đăng: 13/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí