Định Mức Lương Tiền, Gạo Của Võ Quan Triều Gia Long,


dư dụ, duy từ chánh ngũ đến tòng cửu thì xem ra có phần không đủ. Nếu bớt của kẻ có thừa thêm cho kẻ thiếu thốn, thì số bị bớt ít mà số được thêm nhiều. Xin sai bộ Hộ châm chước liệu giảm bớt lương của những chức cao thêm cho những chức thấp, để tỏ sự công bằng vừa phải” [93; 610]. Qua lời bàn trên có thể thấy vua Minh Mệnh nhận thấy việc chỉnh định mức lương của quan văn-võ có phẩm hàm cao là cần thiết nhưng cũng phải hợp lý để vừa khuyến khích những võ quan phẩm hàm cao nhưng cũng vừa đảm bảo được đời sống cho võ quan có phẩm hàm thấp dựa trên thực tế sinh hoạt của xã hội. Từ những tiêu chí đó, vua Minh Mệnh ban hành định lệ mới về chi cấp lương. Theo định lệ này “số tiền gạo lương hằng năm của từ Chánh nhất phẩm đến Chánh nhị phẩm thì liệu lượng giảm bớt đi. Từ Tòng nhị phẩm trở xuống, số tiền theo thứ bậc tăng lên còn số gạo đã đủ ăn dùng hà tất phải cho hậu quá. Vậy số gạo của tòng nhị phẩm hơi giảm đi, còn ngoài ra số gạo các phẩm trật khác vẫn để như cũ” [93; 610].

So với mức lương của quan lại năm 1818 dưới triều vua Gia Long thì định mức lương của đại quan (trong đó có võ quan) - quan có phẩm trật cao từ Tòng nhị phẩm trở lên có sự điều chỉnh giảm xuống đáng kể, nhất là Chánh nhất phẩm, định mức tiền gạo giảm tới gần 1 nửa. Các phẩm trật từ Chánh Tam phẩm trở xuống định mức lương hầu như đều tăng lên theo mức độ tịnh tiến dựa trên phẩm hàm cao thấp. Tuy nhiên, mức tăng của bộ phận võ quan nhỏ không có sự khác biệt đáng kể. Mặc dù vậy, chính sách lương cho quan lại dưới thời Minh Mệnh đã rút ngắn sự chênh lệch quyền lợi lớn giữa quan lại lớn nhỏ.

Thời vua Thiệu Trị (1841- 1847): Trong 7 năm cầm quyền, chế độ lương của võ quan vẫn thực hiện theo định mức lương được ban hành năm Minh Mệnh thứ 20 (1839), không có sự điều chỉnh.

Thời vua Tự Đức (1847-1883): Năm Tự Đức thứ 14 (1861), cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào năm thứ 3, thực dân Pháp đang mở rộng đánh chiếm các tỉnh Nam Kỳ, vua nhận thấy“việc quân nhu rất khẩn. Đình thần xin tiền lương hằng năm của các quan văn võ từ tòng tam phẩm trở lên, liệu lượng rút bớt đi, để giúp quân nhu. Hoàng thân cùng nội đình cũng đều dâng sớ xin rút bớt lương. Vua nghe theo. Đều chuẩn cho bộ châm chước bàn định, bắt đầu bớt lương từ tháng ấy, đợi việc đánh giặc xong lại cấp lương như cũ” [95; 717]. Do đó, định lượng tiền gạo lương của võ quan nói riêng, quan lại nói chung được điều chỉnh giảm đi so với định mức lương được ban hành năm 1839.


Định mức lương của quan lại nói chung (võ quan nói riêng) ban hành dưới triều Gia Long, Minh Mệnh và Tự Đức cụ thể như sau:

Bảng 3.1. Định mức lương tiền, gạo của võ quan triều Gia Long,

Minh Mệnh, Tự Đức


STT


Phẩm trật

ương

Tiền (đơn vị: quan)

Gạo (đơn vị:phương)

Gia

Long

Minh

Mệnh

Tự

Đức

Gia

Long

Minh

Mệnh

Tự

Đức

1

Chánh nhất phẩm

600

400

340

600

300

250

2

Tòng nhất phẩm

360

300

250

300

250

210

3

Chánh nhị phẩm

300

250

210

360

200

170

4

Tòng nhị phẩm

156

180

150

156

150

130

5

Chánh tam phẩm

120

150

130

120

120

105

6

Tòng tam phẩm

90

120

105

90

90

80

7

Chánh tứ phẩm

60

60

60

80

60

60

8

Tòng tứ phẩm

50

60

60

50

50

50

9

Chánh ngũ phẩm

35

40

40

31

35

35

10

Tòng ngũ phẩm

30

35

35

30

30

30

11

Chánh lục phẩm

25

30

30

25

25

25

12

Tòng lục phẩm

22

22

22

25

22

22

13

Chánh, tòng thất phẩm

20

22

22

20

20

20

14

Chánh và tòng bát phẩm

18

20

20

18

18

18

15

Chánh, tòng cửu phẩm

16

18

18

16

18

18

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 212 trang tài liệu này.

Chế độ đãi ngộ đối với quân đội dưới triều Nguyễn giai đoạn 1802-1884 - 9

[Nguồn 89; 963, 93; 610, 95; 717-718]

So sánh định mức lương của các phẩm trật qua các triều vua, rõ ràng lương của võ quan lớn phẩm trật từ Tòng tam phẩm trở lên liên tục điều chỉnh giảm xuống, nhiều nhất là Chánh nhất phẩm chỉ còn bằng gần hơn 1/3 so với thời Gia Long và bằng hơn một nửa so với thời Minh Mệnh.

Bộ phận quan nhỏ, từ Tứ phẩm trở xuống định mức lương dưới thời Minh Mệnh được duy trì. Lần điều chỉnh này dựa trên thực lực của nguồn tài chính đất nước và trong giai đoạn nhà Nguyễn tập trung sức lực cho cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Như lời chỉ dụ của vua Tự Đức thì đây chỉ là giải pháp tạm thời đất nước có chiến tranh và tập trung tiền để mua súng đạn. Điều này phản ánh thực trạng nền kinh tế xã hội đương thời gặp nhiều khó khăn khi triều đình phải chi phí rất nhiều cho các hoạt động quân sự cũng như trợ cấp cho binh lính thương vong trong chiến tranh.

Tuy nhiên, đối với với võ quan từ Tòng Tam phẩm trở lên, nhất là trong hàng ngũ võ quan số lượng không lớn nên mục đích của lần điều chỉnh này không thực sự


700

600

600


500


400

400

340

300

360

300

250

300

250

210

180

200 150

15

120

1190005

100

60

6500

0

chánh nhất Tòng nhất

phẩm phẩm

Chánh nhị

phẩm Gia Long

Tòng nhị Chánh tam

phẩm

phẩm

Tòng tam

phẩm Tự Đức

Chánh tứ

phẩm

Tòng tứ

phẩm

Minh Mệnh

QUAN TIỀN

phát huy tác dụng. Bên cạnh đó, bộ phận võ quan từ Tứ phẩm trở xuống là bộ phận đông đảo, trực tiếp tham gia chiến đấu vẫn giữ định mức lương như cũ. Do đó, việc điều chỉnh này không ảnh hưởng nhiều đến đời vật chất của các võ quan cấp thấp đồng thời cũng không có ý nghĩa động viên tinh thần đối với võ quan trực tiếp tham gia chiến trận trong bối cảnh đất nước có chiến tranh. Sự biến động của định mức lương võ quan từ 1802 đến 1884 được biểu hiện qua sơ đồ sau:


Biểu đồ 3.1. Sự biến động của định mức lương tiền võ quan qua các triều vua Gia Long, Minh Mệnh và Tự Đức

Việc lĩnh lương của quan viên nói chung, võ quan nói riêng được một số vua triều Nguyễn quy định cụ thể về thời gian và cơ quan chịu trách nhiệm cấp phát lương. Võ quan ở Kinh đến lĩnh lương ở bộ Hộ, ngoài Kinh thì do người coi xét sở ty chịu trách nhiệm cấp phát theo phẩm hàm, quy định này được đặt ra vào năm Gia Long thứ 11 (1812). Đối với những trường hợp võ quan thăng hoặc giáng chức, năm Minh Mệnh thứ 9 (1828) nhà nước quy định: Việc cấp lương và tiền xuân phục dựa trên ngày trong chiếu cho thăng chức, không dựa vào ngày chiếu văn phát đến nơi. Nếu việc thăng hoặc giáng chức trùng với ngày phát lương từ mùng 1 đến ngày 20 của tháng phát lương thì được lĩnh hoặc trừ lương trong tháng đó, việc thăng hoặc giáng từ sau ngày 20 của tháng phát lương thì việc tăng hoặc giảm lương sẽ được thực hiện vào kì lĩnh lương sau.

Đối với quan xin lĩnh lương bổng trước, dưới triều vua Thiệu Trị quy định “Các nhân viên được chi lương bổng tại kinh vào cuối năm, nếu như người nào muốn lĩnh trước tiền gạo năm sau, thì cho làm đơn lĩnh vào thượng tuần tháng 12


[34; tờ 75 quyển 22 ngày 3 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842)].

Về thời gian lĩnh lương, Gia Long năm thứ 9 (1810), nhà vua quy định trả lương cho quan viên 1 tháng 1 lần [89; 795], năm Gia Long 11 (1812) đổi định: “cấp phát lương bổng tại Kinh và tại ngoại từ nhất phẩm đến tam phẩm hàng năm phát 2 kỳ; từ tứ phẩm đến thất phẩm phát theo bốn quý; từ bát, cửu phẩm đến quân số có dự bổng lương mỗi tháng phát 1 lần” [4; tờ 99, tập 2 ngày 17 tháng 11 năm Gia Long thứ 11 (1812)]. Cụ thể: “Võ quan từ Nhất phẩm đến Tam phẩm một năm lĩnh lương 2 đợt (6 tháng lĩnh một lần) lĩnh vào tháng giêng và tháng 7; Tứ phẩm đến Thất phẩm lĩnh lương lĩnh lương làm 4 lần (3 tháng 1 lần) lấy các tháng đầu quý làm (tháng giêng, tháng 4, tháng 7, tháng 10) làm tháng lĩnh lương. Cửu phẩm được lĩnh bổng thì được lĩnh mỗi tháng một lần. Ngày lĩnh lương, từ mùng 1 đến ngày 20 của tháng phát lương” [4; tờ 99, tập 2 ngày 17 tháng 11 năm Gia Long thứ

11 (1812)]

Năm Minh Mệnh thứ 5 (1824), triều Nguyễn đổi quy định thời gian phát lương thành 3 tháng 1 lần.

Năm Minh Mệnh thứ 14 (1833), triều đình ban hành quy định những quan viên đến kỳ lĩnh lương làm 2 bản đơn (1 bản nộp cho nhà nước, 1 bản quan giữ), trong đơn ghi thời gian và có xác thực của người cai quản rồi nộp cho viên Lại điển. Sau khi đơn được đóng dấu triện và xác thực của Lại điển, người thủ kho theo đơn để phát tiền gạo cho quan theo định mức được nhận. Tuy nhiên, việc bắt buộc có ấn triện trên đơn lĩnh lương bổng chỉ áp dụng đối với quan lại cấp thấp. Việc này được phản ánh trong lời tấu của bộ binh: “việc chi phát tiền lương có liên quan tới tài sản quốc gia. Nếu như các đơn lĩnh lương của quan viên văn võ ở kinh từ Tứ phẩm trở lên cho tới các nha môn, các quân doanh, các vệ đội đều được cấp ấn triện quan phòng. Trong đó có thể không có ấn triện nhưng phẩm trật cao cũng đủ làm tin còn quản gia và Ti vụ trở xuống đều là nhân viên nhỏ mà tiền gạo lĩnh trong đơn tới hàng ngàn lại không có dấu làm bằng, về lý là rất quan ngại.” [35; tờ 75 quyển 22 ngày 3 tháng 12 năm Thiệu Trị thứ 2 (1842)].

Triều Nguyễn cũng quy định rõ ràng từng loại tiền mà các quan viên (trong đó có võ quan) được lĩnh, quan được nhận tiền bằng đồng với kích cỡ to nhỏ, số lượng khác nhau tùy theo phẩm trật: “Quan Chánh tòng nhất phẩm đồng tiền to nhỏ mỗi thứ 3 quan; Chánh tòng nhị phẩm đòng tiền to 2 quan, đồng tiền nhỏ 3 quan” [15; tờ 70 tập 78 ngày 27 tháng 6 năm Minh Mệnh 21 (1842)]. Tuy nhiên, những quy định này chỉ thực hiện đối với quan và võ quan thời bình. Khi có chiến tranh,


triều đình có những thay đổi phù hợp như lời tâu của bộ Hộ:“Lệ trước, phàm các quan văn võ được bổ ra ngoài, hoặc phái đi trú phòng, về tiền và gạo theo lệ lương bổng được chi đến kỳ cứ để cho lĩnh ở địa phương sở tại. Lúc thường, vô sự, như thế thực là phải; nhưng lúc có việc quân, chuyển vận lương thực rất khó. Vậy, phải nên có một phen châm chước bàn lại để làm thế nào cho thích đáng” [15; tờ 70 tập 78 ngày 27 tháng 6 năm Minh Mệnh 21(1842)].

- Lương điền

20 18

1514.5

15

1413.5

13

12.5

1211.5

1110.5

10

10

9

8.5

8

5


0

Trên nhất Nhất Nhị phẩm Tam phẩm Tứ phẩm Ngũ phẩm Lục phẩm

phẩm phẩm

Thất

phẩm

Bát phẩm Cửu phẩm

Phẩm hàm


Chánh Tòng

ĐỊnh mức theo phần

Ngoài được cấp lương bằng tiền và gạo, võ quan còn được cấp công điền công thổ theo lệ quân điền dựa theo phẩm trật nằm trong chế độ chung của quan lại dưới triều Nguyễn. Chế độ này được triều Nguyễn ban hành lần đầu vào năm Gia Long thứ 3 (1804). Theo định lệ này, lương điền của quan viên văn võ được chia thành 16 mức, trong đó, từ hàm Thất phẩm trở xuống Chánh - Tòng cùng một định mức. Mức nhận nhiều nhất của của võ quan là 18 phần, thấp nhất là Chánh tòng cửu phẩm được 8 phần. Cụ thể như sau:










Biểu đồ 3.2. Định mức lương điền của võ quan ban hành năm Gia Long thứ 3 (1804)

[Nguồn:89; 559]

So với chế độ lương ban cấp bằng tiền và gạo, chính sách ban cấp ruộng đất của triều Nguyễn đối với quan không có sự chênh lệch lớn giữa các phẩm hàm. Võ quan được hưởng chế độ ruộng đất này kéo dài trong 36 năm, đến năm 1840, vua Minh Mệnh tiến hành một số điều chỉnh về chế độ quân điền. Nhận thấy quan lại đã được hưởng nhiều lương và bổng lộc, nếu lấy phẩm trật để chia ruộng là không công bằng do vậy, vua Minh Mệnh quy định “bao nhiêu điền thổ, cứ quan lại, binh thợ cùng các hạng dân thực nạp, biệt nạp, không cứ phẩm trật hơn kém, mỗi người đều được cấp cho 1 phần khẩu phần” [93; 739]. Như vậy, từ sau năm 1840, võ quan cũng như các viên quan lại trong triều phẩm trật cao hay thấp đều được hưởng


số ruộng khẩu phần bằng nhau, không có sự phân biệt như chính sách ruộng đất ban cho quan lại năm 1803 dưới triều vua Gia Long.

- Chế độ ban cấp tiền may quân phục

Bát phẩm


Thất phẩm Lục phẩm Ngũ phẩm Tứ phẩm Tam phẩm Nhị phẩm

Nhất phẩm

0

10

20

30

40

Quan tiền

50

60

70

80

Column1 Tòng Chánh

Phẩm hàm

Ngoài lương được cấp bằng tiền, gạo và ruộng được chia theo khẩu phần, dưới triều Nguyễn võ quan cùng với các quan viên khác hàng năm còn được nhận tiền nhà nước ban cấp cho việc may quần áo. Tháng 1 năm Gia Long thứ 17 (1818), triều đình ban hành định lệ chi cấp tiền may quần áo gọi là tiền xuân phục cho các quan văn võ từ nhất phẩm đến bát phẩm. Định mức cụ thể như sau:


Biểu đồ 3.3. Định mức tiền may quần áo cho võ quan năm Gia Long thứ 17 (1818)

[Nguồn: 89; 963, 67; 439]

Vua Gia Long cũng thống nhất mức ban cấp cho các quan văn, võ đã nhận tiền xuân phục trước năm 1817 theo hướng có lợi cho những quan nhận mức thấp hơn định mức hiện hành. Định lệ này quy định, quan (văn- võ) được bổ từ năm Gia Long thứ 16 (1817) về trước, ai dự lệ có bổng và đồ mặc mùa xuân, theo lệ cũ được nhiều mà theo lệ mới được ít, thì chi theo lệ cũ; theo lệ mới được nhiều mà theo lệ cũ được ít, thì chi theo lệ mới; từ tháng giêng năm nay trở về sau đều theo lệ mới; ai có lỗi bị phạt thì chỉ phạt vào lương chính, tiền đồ mặc mùa xuân thì tha [89; 964].

Tháng 4 năm Minh Mệnh thứ 3 (1822), thay vì cấp bằng tiền, đối với võ quan từ Chánh đội trưởng trở lên được triều đình phát trực tiếp bằng quần áo [90; 209]. Tuy nhiên, quy định này cũng được thực hiện linh hoạt, trên thực tế quan từ Lục phẩm trở lên vẫn được cấp phát bằng tiền và vải. Ví dụ, tháng 11


năm Minh Mệnh thứ 2 (1821), nhà nước ban triều phục cho các quan văn võ Nhị, Tam phẩm và các quan trấn ở Bắc Thành. Ai đã mua quần áo thì cấp cho tiền, vải. Hoặc như theo bản ghi chép bộ Hộ kê khai y phục vụ xuân vào năm Minh Mệnh thứ 19 (1836) quan (văn- võ) từ Chánh ngũ phẩm trở lên được cấp phát bằng quần áo và vải lụa:“quan trong kinh từ Chánh ngũ phẩm trở lên, y phục vụ xuân năm nay truyền theo số tiền mỗi viên được hưởng tính toán ứng cấp y phục vụ xuân, hoặc cấp vải lụa tính thành tấm, loại nào bao nhiêu tấm gộp lĩnh chia cấp” [16; tờ 65 tập 65 ngày 08 tháng 2 Minh Mệnh năm thứ 19

(1838)].

Dưới triều Tự Đức, năm 1858 nhà vua đổi phát bằng bạc lạng thay cho cấp bằng tiền và vải hay quần. Trong đó quy đổi, mỗi đĩnh bạc 10 lạng giá 102 quan tiền; người nào lương không đến 10 lạng bạc, thì cấp đĩnh bạc 1 lạng; người nào lương không đến đĩnh 1 lạng, thì cấp thực tiền [95; 642].

Ngoài được ban cấp xuân phục, võ quan còn được triều đình ban cấp quần áo mùa đông. Năm Minh Mệnh thứ 15 [1834], triều Nguyễn đặt định lệ ban áo mùa đông cho võ quan từ Chánh- Phó Vệ uý trở lên [92; 357].

Bên cạnh đó, những võ quan mắc lỗi thì có thể bị giảm hoặc thôi cấp lương. Chế độ này được thực hiện chung với chế độ phạt lương của quan viên triều Nguyễn. Năm Gia Long thứ 17 (1818) triều Nguyễn quy định, quan viên có tội bị xử phạt lương thì chỉ phạt lương chính và tiền dưỡng liêm vong lệ tiền áo xuân phục vẫn được lĩnh theo định lệ. Năm Minh Mệnh thứ 10 (1829), triều đình quy định về việc phạt lương cho đối với quan văn võ trong trường hợp bị xử phạt khi lương thấp nhưng phạm lỗi lúc chức cao lương nhiều và ngược lại. Đối với trường hợp phạm lỗi lúc chức cao lương nhiều mà án phạt lúc chức thấp lương ít thì theo số lương bổng trước mà khấu trừ vào lương hiện tại. Trường hợp ngược lại thì chiểu theo số tiền gạo lương hiện tại mà trừ [67; 459]. Thiệu Trị năm thứ 3 (1843) quy định rõ về việc quan viên bị thôi cấp lương tùy theo mức độ phạm tội và kết luận của vua trong sắc chỉ. Những viên quan phạm tội nặng, sắc chỉ của vua ghi bàn xử rất nghiêm thì bị bị thôi cấp lương. Trường hợp trong sắc chỉ không ghi xét xử nghiêm thì vẫn được nhận lương theo định lệ.

3.1.2. Chế độ lương đối với võ quan về hưu

Đây cũng là một trong những chính sách quan trọng của triều Nguyễn vừa đảm bảo đời sống cho võ quan đồng thời thể hiện sự quan tâm của nhà nước đối với những người có công đối với vương triều.


Ngay sau khi lập nước, năm Gia Long thứ 1 (1802), nhận thấy công lao của các công thần vua Gia Long từng nói:“Trẫm từ khi vận nước suy vi, bôn ba nhiều chỗ, các tướng sĩ đi theo giúp đỡ, khi trú ngụ ở thành Vọng Các, nếm đủ gian khổ, hoặc năm Mậu thân mới lấy Gia Định, ứng nghĩa cần vương. Sau có người nhân đánh giặc bị thương hoặc già ốm mà phải về quê quán nghỉ ngơi. Hiện nay nước nhà đã yên, trẫm nhớ lại công trước, nên bàn việc đáp đền” [89; 533].

Khi lên ngôi vua Gia Long đã thực hiện ban cấp tiền lương hàng tháng cho công thần gồm võ quan và thuộc binh đầu quân từ sau năm Mậu thân (1788) (vua Gia Long lấy được thành Gia Định) đến trước năm Canh thân (1800) vua lấy được thành Quy Nhơn. Số quan binh này chia làm ba hạng để chi cấp: quan binh về hưu mà đánh trận bị thương là hạng nhất; người bệnh khỏi đợi dùng, tuổi già ốm yếu là hạng nhì; người can phạm kỷ luật đã xá miễn là hạng ba. Từ việc phân hạng này nhà nước cấp tiền và gạo hàng tháng theo định mức sau:

Bảng 3.2. Lương của công thần về hưu ban hành năm Gia Long thứ nhất (1802)



STT


Võ quan


Hạng

Định mức

Tiền (quan: tiền)

Gạo

(phương: uyển)


1


Chánh vệ, chánh chi

Hạng nhất

12

12

Hạng nhì

6

6

Hạng ba

3

3


2


Phó vệ phó chi

Hạng nhất

10

10

Hạng nhì

5

5

Hạng ba

2:5

2:15


3

Trưởng hiệu cai cơ, cai đội

Hạng nhất

8

8

Hạng nhì

4

4

Hạng ba

2

2


4


Phó đội

Hạng nhất

6

6

Hạng nhì

3

3

Hạng ba

1 :5

1: 15


5


Đội trưởng

Hạng nhất

4

4

Hạng nhì

2

2

Hạng ba

1

1


6


Binh đinh

Hạng nhất

2

2

Hạng nhì

1

1

Hạng ba

0:5

15 uyển

[Nguồn: 89; 533]

Xem tất cả 212 trang.

Ngày đăng: 06/06/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí