Hoàn Thiện Các Qui Định Của Pháp Luật Về Chế Định Người Bào Chữa

Nghị quyết 49[22] của Bộ Chính trị, một trong những biện pháp quan trọng đó là hoàn thiện chế định NBC trong TTHS ở nước ta.

Bên cạnh đó, thời gian qua nhiều văn bản pháp luật mới được ban hành có các nội dung liên quan đến NBC như: Luật Trợ giúp pháp lý năm 2006 qui định về chế định Trợ giúp viên pháp lý và quyền bào chữa của người được Trợ giúp pháp lý; Nghị quyết số 37/NQ-QH13 ngày 23/11/2012 của Quốc hội tiếp tục khẳng định “TA nhân dân tối cao chỉ đạo TA tiếp tục đẩy mạnh việc tranh tụng tại phiên tòa”; Hiến pháp năm 2013 có một số nội dung qui định liên quan đến quyền bào chữa: “Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ LS hoặc người khác bào chữa”[49, khoản 4 Điều 31]; “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm; Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm” [49, khoản 5, khoản 7 Điều 103]. Do đó, cần phải tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định BLTTHS năm 2003 cho phù hợp với Hiến pháp và các văn bản pháp luật khác nhằm bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản pháp luật, giải quyết một số vấn đề bất cập do thực tiễn đặt ra.

Mặt khác, do BLTTHS năm 2003 qui định chưa đầy đủ, chặt chẽ, thiếu tính thống nhất nên còn gặp khó khăn, lúng túng, bất cập, vướng mắc trong quá trình áp dụng. Điều đó tạo nên những “rào cản” cho NBC trong thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trên thực tế. Ví dụ: các qui định về chế định NBC còn nằm rải rác ở các chương, điều khác nhau; chưa có khái niệm thống nhất về NBC, phạm vi đối tượng bào chữa còn hẹp, chưa mở rộng đối tượng bào chữa đối với người bị bắt như qui định tại Hiến pháp năm 2013; chưa qui định về tiêu chuẩn, điều kiện của BCVND, người đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo; việc xem xét chứng nhận tư cách NBC đối với BCVND, người đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo còn nhiều vướng mắc do pháp luật qui định chưa cụ thể, rõ ràng dẫn đến các CQTHTT gặp rất

nhiều khó khăn trong việc đảm bảo thực hiện quyền và nghĩa vụ của họ giống và khác LS bào chữa ở mức độ nào. Đồng thời, những chủ thể bào chữa này khi tham gia tố tụng cũng gặp phải không ít khó khăn, phiền hà từ qui định của luật. Nhiều chế định quan trọng chưa được đưa vào trong BLTTHS năm 2003 như chế định Trợ giúp viên pháp lý, nên còn bất cập, chưa phù hợp với thông lệ quốc tế về người thực hiện trợ giúp pháp lý với chức danh LS, dẫn tới nhiều khó khăn trong hành nghề của Trợ giúp viên pháp lý. Thực tế nhiều trường hợp NBTG, bị can, bị cáo chưa hiểu rõ về Trợ giúp viên pháp lý nên thường từ chối nhờ Trung tâm Trợ giúp pháp lý nhà nước cử NBC cho họ; vị trí, vai trò của NBC chưa thực sự được coi trọng bởi sự nhận thức chưa đầy đủ của cơ quan, người THTT và bởi chính qui định của Bộ luật (NBC chỉ là người tham gia tố tụng); quyền và nghĩa vụ của NBC được qui định cụ thể, rõ ràng, nhưng chưa thực sự tạo cơ hội bình đẳng cho NBC trong tham gia TTHS nên không phát huy được vai trò trong thực tiễn; hoạt động tranh tụng tại Tòa chưa được mở rộng, còn mang đậm dấu ấn của mô hình tố tụng thẩm vấn với đặc trưng cơ bản là xây dựng, sử dụng hồ sơ vụ án với các chứng cứ viết để xét xử; phương pháp tìm kiếm chứng cứ để buộc tội người bị nghi thực hiện tội phạm chủ yếu bằng việc bắt, tạm giữ, tạm giam để thiết lập hồ sơ vụ án chứ không phải tìm đầy đủ chứng cứ buộc tội rồi mới bắt, tạm giữ, tạm giam; CQTHTT có quyền hạn rất lớn trong việc điều tra, truy tố, xét xử bằng việc có toàn quyền quyết định khởi tố, truy tố, xét xử người phạm tội ra trước TA; mọi hành vi của những người tham gia tố tụng trong đó có NBC đều phải chịu sự cho phép của các CQTHTT; trong BLTTHS năm 2003 còn thiếu vắng các quy phạm điều chỉnh sự tranh tụng giữa bên buộc tội và bên bào chữa, tranh tụng tại phiên tòa bị hạn chế, một số Thẩm phán còn hạn chế thời gian trình bày lời bào chữa của bị cáo hoặc NBC; Chủ tọa phiên tòa không yêu cầu Kiểm sát viên đáp lại những ý kiến có liên quan đến vụ án của NBC và những người tham gia tố tụng khác, chỉ chú ý đến chứng cứ buộc tội

do VKS đưa ra; việc xét hỏi tranh luận tại phiên tòa chưa đáp ứng yêu cầu tranh tụng, HĐXX còn đặt ra những câu hỏi mang tính áp đặt buộc bị cáo khai đúng với lời khai ở các giai đoạn trước; HĐXX nhiều khi làm thay chức năng của VKS như: được quyền quyết định khởi tố nếu qua việc xét xử tại phiên tòa mà phát hiện được tội phạm hoặc người phạm tội mới cần phải điều tra, do đó với tính chất là “trọng tài” điều khiển sự tranh luận giữa Kiểm sát viên thực hành quyền công tố với NBC đã mất đi tính khách quan, phiên toà theo tinh thần cải cách tư pháp không còn ý nghĩa…

Về những hạn chế, bất cập của một số qui định trong BLTTHS năm 2003 liên quan đến chế định NBC đã được tác giả đề cập ở một số nội dung chương 1 và chương 2 của Luận văn và được minh chứng bằng kinh nghiệm hoạt động thực tiễn trong quá trình công tác và qua nghiên cứu, khảo sát thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương.

Trên cơ sở nghiên cứu các qui định pháp luật hiện hành về chế định NBC và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương, tác giả cho rằng việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLTTHS năm 2003 trong đó có những vấn đề liên quan đến chế định NBC là công việc có tính cấp bách nhằm đáp ứng yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp đang diễn ra ở nước ta.

3.2. HOÀN THIỆN CÁC QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ CHẾ ĐỊNH NGƯỜI BÀO CHỮA

3.2.1. Hoàn thiện các qui định của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 về chế định người bào chữa

Dựa trên sự cần thiết phải hoàn thiện các qui định của BLTTHS năm 2003 được nêu ở mục 3.1, những khó khăn, bất cập đã được phân tích tại Chương 1, Chương 2 của Luận văn và qua thực tiễn áp dụng chế định NBC trên địa bàn tỉnh Hải Dương, tác giả đưa ra một số ý kiến hoàn thiện các qui định của BLTTHS năm 2003 liên quan đến chế định NBC như sau:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

- BLTTHS nên xây dựng một chương riêng qui định về bào chữa, bởi BLTTHS hiện hành chỉ có một số quy định liên quan đến chế định NBC đặt trong nhiều điều, nhiều chương khác nhau, vừa không đầy đủ, vừa khó áp dụng. Ví dụ: qui định về quyền bình đẳng của NBC với Kiểm sát viên và những người tham gia tố tụng khác trước TA tại Điều 19 Chương I; các qui định về chủ thể bào chữa, quyền và nghĩa vụ của NBC được đặt tại các Điều 56, 57, 58 Chương IV; qui định về sự có mặt của NBC tại Điều 190 Chương XVIII; qui định về quyền kháng cáo của NBC tại Điều 231 Chương XXIII,…Việc tách các quy định hiện hành thành một chương riêng sẽ tạo điều kiện quy định đầy đủ các nội dung liên quan đến bào chữa, thể hiện tư tưởng bảo đảm tốt hơn quyền con người trong TTHS. Mặt khác, cũng đảm bảo tính khoa học và hợp lý.

- Về chủ thể bào chữa theo qui định tại khoản 1 Điều 56: Nên bỏ chủ thể bào chữa là “bào chữa viên nhân dân” được qui định tại điểm c khoản 1 Điều 56, thay vào đó là “Trợ giúp viên pháp lý”, theo đó bỏ khoản 3 Điều 57, bởi trước đây có qui định về Bào chữa viên nhân dân vì chưa có hệ thống LS và Trợ giúp viên pháp lý, đến nay, ở tất cả các tỉnh, thành phố trên cả nước đều có Đoàn LS, Văn phòng LS, Trung tâm trợ giúp pháp lý nhà nước và họ phải tuân theo Luật LS, Luật Trợ giúp pháp lý khi hành nghề, trong khi chưa có qui định về tiêu chuẩn, điều kiện về Bào chữa viên nhân dân. Do đó, qui định BCVND dường như trở thành qui định “chết”, hoạt động của nó hầu như đã bị quên lãng, nó chỉ tồn tại trên “phương diện pháp lý”. Mặt khác, trong tiến trình cải cách tư pháp, xây dựng nhà nước pháp quyền, chế định Trợ giúp viên pháp lý là một chế định quan trọng không thể thiếu. Một trong các tiêu chí của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là quyền bình đẳng trong tiếp cận công lý, bất kể là người giàu hay nghèo đều được bình đẳng về pháp luật, được mời NBC miễn phí nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương - 11

Và mặc dù chế định Trợ giúp viên pháp lý là chế định hoàn toàn mới, chưa được đề cập trong các Nghị quyết cũng như một số văn bản luật vì nó được ra đời sau, nhưng hiện nay theo Luật Trợ giúp pháp lý thì Trợ giúp viên pháp lý hoạt động với chức năng, nhiệm vụ giống như LS, chỉ khác phạm vi hoạt động hẹp hơn vì đối tượng bào chữa chỉ bao gồm người nghèo, người có công với cách mạng và một số đối tượng chính sách khác theo qui định của pháp luật về trợ giúp pháp lý. Hơn nữa, theo điểm b khoản 2 Mục II Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 ban hành kèm theo Quyết định 678/QĐ-TTg ngày 10/5/2011 của Thủ tướng Chính phủ thì thời gian tới, chức danh Trợ giúp viên pháp lý được thay là LS nhà nước, hoạt động giống như LS. Tuy nhiên, thực tế hiện nay với qui định Trợ giúp viên pháp lý được tham gia TTHS với tư cách là người đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo để thực hiện việc bào chữa, có quyền và nghĩa vụ như của NBC đã bị luật “ngáng chân” để Trợ giúp viên pháp lý thực hiện quyền của mình, vô hình chung làm hạn chế quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị cáo đặc biệt là những đối tượng được trợ giúp pháp lý mà Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. Thời gian qua, khi Trợ giúp viên pháp lý tham gia TTHS để bào chữa cho NBTG, bị can, bị cáo thuộc diện được trợ giúp pháp lý miễn phí còn gặp phải những phiền hà từ phía các CQTHTT bởi thiếu hành lang pháp lý cho Trợ giúp viên pháp lý. Nhiều CQTHTT không hiểu hoặc cố tình không hiểu đã từ chối sự tham gia bào chữa của Trợ giúp viên pháp lý với lý do “BLTTHS chưa qui định” hoặc “Luật Trợ giúp pháp lý qui định Trợ giúp viên pháp lý tham gia TTHS với tư cách là người đại diện cho NBTG, bị can, bị cáo” nên khi đề nghị cấp Giấy chứng nhận NBC, CQTHTT viện dẫn qui định tại Bộ luật dân sự về người đại diện và yêu cầu Trợ giúp viên pháp lý ngoài việc xuất trình những giấy tờ qui định trong luật, còn yêu cầu xuất trình thêm “Giấy ủy quyền” của NBTG, bị can, bị cáo cho Trợ giúp

viên pháp lý. Do vậy, vị trí tham gia TTHS của Trợ giúp viên pháp lý có phần “yếu thế” hơn LS. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về TTHS theo hướng khẳng định địa vị pháp lý của Trợ giúp viên pháp lý khi tham gia tố tụng nhằm đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản quy phạm pháp luật khác. Có như vậy, địa vị pháp lý của Trợ giúp viên pháp lý mới ngang tầm khi tham gia tranh tụng tại TA.

Bên cạnh đó, cần qui định cụ thể người đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 56 là những đối tượng nào, tiêu chuẩn, điều kiện trở thành NBC nhằm tạo điều kiện cho qui định đó được thi hành trong thực tiễn TTHS. Bởi trong thực tiễn TTHS nếu NBTG, bị can, bị cáo là người đã thành niên, không có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần mà người thân thích của họ tuy không phải là LS, BCVND, Trợ giúp viên pháp lý nhưng họ có yêu cầu được tham gia tố tụng để bào chữa cho NBTG, bị can, bị cáo vì họ là người có kiến thức pháp lý và kinh nghiệm tố tụng vì trước đây họ từng là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán,...nay đã nghỉ hưu. Vậy họ có được bào chữa cho người thân thích của mình là NBTG, bị can, bị cáo hay không? Vấn đề này còn nhiều ý kiến khác nhau, theo chúng tôi thì họ vẫn được quyền tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo vì theo tại điểm b khoản 1 Điều 56 BLTTHS năm 2003 chỉ qui định là người đại diện cho NBTG, bị can, bị cáo nói chung chứ không qui định riêng đối với NBTG, bị can, bị cáo là người chưa thành niên, người có nhược điểm về thể chất hoặc tâm thần. Thực tiễn TTHS đã công nhận và cấp giấy chứng nhận bào chữa cho người đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, số vụ án có người đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo tham gia bào chữa cũng chiếm tỷ lệ rất ít. Bên cạnh đó, cần xem xét hoạt động bào chữa đối với người đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo bởi thực tiễn TTHS cho thấy, có trường hợp CQTHTT đã cấp

giấy chứng nhận NBC nhưng họ lại gặp phải sự từ chối của NBTG, bị can, bị cáo vì kiến thức pháp lý và kinh nghiệm tố tụng còn hạn chế. Mặt khác, đối với người đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo nếu là người đại diện theo pháp luật thì họ là cha, mẹ, người giám hộ hoặc người thân thích của NBTG, bị can, bị cáo nên trong trường hợp NBTG, bị can, bị cáo quanh co, chối tội, không thừa nhận hành vi vi phạm pháp luật của mình thì người đại diện hợp pháp chắc chắn sẽ đồng tình bởi vì họ là người thân thích của nhau, do đó sẽ gây khó khăn cho các CQTHTT trong quá trình giải quyết và làm sáng tỏ vụ án, dẫn đến nghĩa vụ tôn trọng sự thật và pháp luật của NBC đã được BLTTHS qui định không được thực hiện trên thực tế. Do đó, BLTTHS cần qui định cụ thể về điều kiện, tiêu chuẩn của người đại diện hợp pháp của NBTG, bị can, bị cáo.

- Về đối tượng bào chữa: Xác định đúng đối tượng bào chữa sẽ đảm bảo được quyền bào chữa đã được Hiến pháp 2013 và BLTTHS năm 2003 ghi nhận bởi quyền bào chữa là công cụ pháp lý hữu hiệu giúp đối tượng bào chữa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời giúp cho quá trình giải quyết VAHS được khách quan, công minh, đúng pháp luật. Do đó, BLTTHS nên bổ sung người bị bắt cũng là đối tượng bào chữa cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013.

Bên cạnh đó, BLTTHS nên mở rộng phạm vi đối tượng bào chữa bao gồm người bị kết án. Theo đó, NBC có quyền tham gia tại các phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kết án. Bởi hiện nay, pháp luật TTHS chưa qui định quyền bào chữa của người bị kết án nên người bị kết án cũng không được coi là đối tượng bào chữa. Tuy nhiên, BLTTHS hiện hành qui định thi hành án cũng coi là một giai đoạn TTHS do đó cần qui định người bị kết án cũng là đối tượng bào chữa. Người bị kết án là người bị buộc tội bằng một bản án kết tội của TA đã có hiệu lực

pháp luật. Người bị kết án rất cần sự giúp đỡ về mặt pháp lý, giúp họ bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp. Bởi trên thực tế, nhiều trường hợp do trình độ, năng lực giải quyết VAHS của người THTT còn hạn chế hoặc do không vô tư, khách quan khi giải quyết vụ án dẫn đến tình trạng kết án oan, sai, không đúng người, đúng tội, đúng pháp luật hoặc có trường hợp người bị kết án nhận tội thay cho người khác do bị ép buộc, cưỡng ép. Do đó, sự giúp đỡ về mặt pháp lý giúp người bị kết án bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình là hết sức cần thiết, đồng thời làm hạn chế tình trạng nói trên. Mặt khác, mặc dù BLTTHS không trực tiếp qui định người bị kết án có quyền bào chữa nhưng đã gián tiếp ghi nhận quyền tự bào chữa của người bị kết án thông qua việc qui định quyền của người bị kết án tại các Điều 274, Điều 292, đoạn 2 Điều 280, đoạn 2 khoản 2 Điều 282 BLTTHS năm 2003. Đó là: người bị kết án có quyền phát hiện những vi phạm pháp luật của các bản án, quyết định của TA có hiệu lực pháp luật và có quyền thông báo cho VKS hoặc TA những tình tiết mới được phát hiện của vụ án; khi xét thấy cần thiết, TA phải triệu tập người bị kết án, NBC và có thể triệu tập người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm; nếu đã triệu tập người bị kết án, NBC, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị thì những người này được trình bày ý kiến trước khi đại diện VKS phát biểu. Những qui định trên nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho người bị kết án, tạo cho họ được trình bày ý kiến của mình, đưa ra chứng cứ chống lại sự buộc tội [19, tr.123]. Do đó việc mở rộng đối tượng bào chữa là người bị kết án là đòi hỏi khách quan.

Mặt khác, tại khoản 2 Điều 57 cần qui định mở rộng đối tượng được bào chữa do chỉ định. Theo quy định hiện hành, NBTG, bị can, bị cáo chỉ được chỉ định NBC trong hai trường hợp: Một là, bị can, bị cáo về tội theo khung hình phạt có mức cao nhất là tử hình được quy định tại Bộ luật Hình

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 24/12/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí