2003 và các văn bản pháp luật khác có liên quan đến chế định NBC, tạo các cơ hội để bên bào chữa có vị trí độc lập, bình đẳng với các chủ thể khác đặc biệt là đối với các cơ quan, người THTT. Khi vị trí của NBC được ghi nhận và có được vị trí trong xã hội thì vai trò của NBC mới được nâng cao, từ đó “góp phần bảo vệ công lý, phát triển kinh tế, xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”[45, Điều 3]. Do đó, tác giả đưa ra một số ý kiến như sau:
- Hoàn thiện một số qui định của pháp luật TTHS, pháp luật về LS và trợ giúp pháp lý, tạo cơ sở pháp lý đồng bộ, thống nhất cho việc đổi mới và phát triển chế định NBC phù hợp với chủ trương và lộ trình cải cách tư pháp theo Nghị quyết số 49[22] của Bộ Chính trị. Hoạt động của NBC không thể tách rời các hoạt động tố tụng. Do đó, cần xây dựng và tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan của Chính phủ với TA nhân dân tối cao, VKS nhân tối cao và Bộ Công an trong việc triển khai và tổ chức thực hiện những chủ trương của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp nói chung, những quy định pháp luật về TTHS nói riêng. Trước mắt, cần phối hợp để chỉnh lý sửa đổi, bổ sung BLTTHS năm 2003, Luật LS năm 2006, Luật trợ giúp pháp lý năm 2006 và hướng dẫn kịp thời các quy định về việc tham gia tố tụng của NBC, trong đó cụ thể hóa các quyền, nghĩa vụ của NBC trong quá trình tham gia tố tụng và thực hiện tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời phối hợp chặt chẽ trong việc triển khai thực hiện Chiến lược phát triển nghề LS đến năm 2020, Chiến lược phát triển trợ giúp pháp lý ở Việt Nam đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Bên cạnh đó, hoàn thiện một số qui định pháp luật về trợ giúp pháp lý theo đó qui định Trợ giúp viên pháp lý là NBC chứ không phải là người đại diện như qui định hiện hành, tiến tới đổi tên Trợ giúp viên pháp lý thành LS nhà nước theo Đề án của Chính phủ.
- Xây dựng và hoàn thiện mô hình TTHS ở nước ta theo hướng tiếp tục duy trì những ưu điểm của mô hình tố tụng thẩm vấn hiện hành, tiếp thu
những hạt nhân hợp lý của mô hình tố tụng tranh tụng trên thế giới phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Bởi xét theo mô hình TTHS trên thế giới, mô hình TTHS ở nước ta nghiêng về mô hình tố tụng thẩm vấn, thể hiện thông qua những qui định trong BLTTHS năm 2003: Tại phiên xét xử, TA vẫn giữ vai trò chính làm nhiệm vụ kiểm tra chứng cứ tại Tòa, xem các hoạt động của CQĐT trước đó có đúng pháp luật hay không; trách nhiệm chứng minh tội phạm vẫn thuộc về TA; HĐXX được quyền khởi tố vụ án tại phiên tòa; chưa phân định rõ 3 chức năng cơ bản của TTHS: buộc tội, gỡ tội, xét xử; địa vị pháp lý của NBC chưa thực sự bình đẳng với cơ quan, người THTT,... Mô hình tố tụng thẩm vấn của TTHS Việt Nam như đã nêu ở trên là một trong những hạn chế của TTHS hiện hành, ảnh hưởng không nhỏ đến quyền bào chữa của bị can, bị cáo, vị trí và vai trò của NBC. Nếu đổi mới theo hướng tranh tụng thì chúng ta cần xem xét những vấn đề sau:
Thứ nhất, cần ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS cho phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Ghi nhận nguyên tắc này sẽ là cơ sở pháp lý để các cơ quan, người THTT, người tham gia tố tụng tiến hành các hoạt động bình đẳng và tuân thủ pháp luật, là cơ chế để bảo đảm quyền của đối tượng bào chữa trong TTHS. Khi ghi nhận nguyên tắc tranh tụng cần: xác định rõ chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử. Do đó, cần qui định nhiệm vụ, quyền hạn của bên buộc tội, NBC và TA phù hợp với chức năng tố tụng của chủ thể đó theo qui định của pháp luật; qui định các điều kiện bảo đảm để các chủ thể buộc tội và NBC bình đẳng với nhau trong tranh tụng. TA phải tách khỏi chức năng buộc tội. TA chỉ đóng vai trò là trọng tài với chức năng điều khiển phiên tòa, giải thích luật và quyết định kết quả của quá trình tố tụng. Kiểm sát viên và NBC có quyền và nghĩa vụ ngang nhau, hai bên cùng tranh luận, đưa ra chứng cứ để bảo vệ quan điểm của mình. Trong tranh luận đối đáp các bên có quyền áp dụng mọi biện pháp để bảo vệ
quan điểm của mình, phản bác ý kiến của bên đối tụng, đặt câu hỏi cho bên đối tụng và yêu cầu trả lời. HĐXX phải căn cứ vào các chứng cứ đã được thẩm tra tại phiên tòa và các ý kiến tranh luận để ra bản án, quyết định. Như vậy, NBC mới có vị trí xứng đáng, bình đẳng với Kiểm sát viên giữ quyền công tố tại phiên tòa, phát huy được vai trò là người bảo vệ công lý, người phản biện, giám sát hoạt động tố tụng, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp cho bị can, bị cáo. Do đó, bên cạnh việc làm rõ chức năng buộc tội và chức năng xét xử cần chú ý đến chức năng bào chữa, trong đó có vai trò của NBC. Bào chữa là một trong những hoạt động đặc trưng của TTHS. Trong TTHS luôn đặt ra hai vấn đề bào chữa và buộc tội, nó cùng song song tồn tại như một nhu cầu tất yếu khách quan. Từ lâu các nhà Triết học cổ đại cho rằng chân lý chỉ sinh ra trong quá trình tranh luận. Theo Mác thì: “Sự thật được xác lập nhờ sự tranh cãi, bút chiến và sự kiện lịch sử được xác lập từ những quan điểm trái ngược nhau”. Do vậy, phải sửa đổi một số qui định trong BLTTHS như: bỏ qui định trách nhiệm chứng minh tội phạm của TA (Điều 10); bỏ qui định HĐXX có quyền khởi tố vụ án (đoạn 3 khoản 1 Điều 104); thay đổi về trình tự xét hỏi (Điều 207); vẫn tiếp tục xét xử khi VKS đã rút quyết định truy tố (Điều 195); bỏ qui định xử vượt quá giới hạn truy tố (Điều 196). Sở dĩ ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là nhằm nâng cao địa vị pháp lý của NBC, thay đổi địa vị pháp lý của NBC như một chức danh tư pháp độc lập, bình đẳng về quyền và nghĩa vụ với cơ quan, người THTT, xử lý mối quan hệ giữa các chủ thể thực hiện chức năng buộc tội và gỡ tội trong quá trình hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam.
Mặt khác, khi ghi nhận nguyên tắc tranh tụng là nguyên tắc cơ bản của BLTTHS cần nêu rõ khái niệm “tranh tụng” là gì? Bởi đến nay, thuật ngữ “tranh tụng” chỉ mới được đề cập trong các văn bản của Đảng, trong các sách, báo pháp lý của các nhà nghiên cứu, nhà luật học nên hiện còn nhiều cách
hiểu, nhận thức khác nhau về “tranh tụng”, ngay cả BLTTHS chỉ quy định về tranh luận là một giai đoạn của xét xử, Hiến pháp năm 2013 cũng chỉ đề cập đến nguyên tắc tranh tụng mà chưa định nghĩa thế nào là “tranh tụng”. Theo Từ điển tiếng Việt thì “tranh tụng” được cho là đồng nghĩa với kiện tụng[65, tr.1025]. Còn theo tiếng Hán Việt thì “tranh tụng” xuất phát từ “tranh luận” và “tố tụng”. Như vậy, tranh tụng chính là tranh luận trong tố tụng [25], do vậy bao giờ cũng gắn liền với hoạt động tài phán của Tòa án. Có ý kiến cho rằng: tranh tụng trong TTHS là sự tranh luận của bên buộc tội và bên bào chữa, dựa trên những chứng cứ được đưa ra trước phiên tòa do các bên thu thập theo quy định của pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, là cơ sở để Tòa án ra phán quyết có hiệu lực thi hành, nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của con người. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này.
Thứ hai, nên qui định sự tham gia của NBC tại phiên tòa là nghĩa vụ bắt buộc nhằm tránh tình trạng vắng mặt NBC tại phiên tòa với bài bào chữa gửi trước. Theo đó, Điều 190 BLTTHS năm 2003 sửa đổi như sau: “NBC có nghĩa vụ tham gia phiên tòa. Nếu NBC vắng mặt thì HĐXX phải hoãn phiên tòa”. Như vậy, mới đảm bảo được tính tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần cải cách tư pháp, quyền và lợi ích hợp pháp của bị cáo mới được đảm bảo;
Thứ ba, khẳng định nghĩa vụ của các CQTHTT phải tạo mọi điều kiện tốt nhất để thực hiện việc tranh tụng. TA phải tạo điều kiện để các bên tranh tụng thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của mình, phải xem xét vô tư, khách quan mọi chứng cứ và lý lẽ của bên buộc tội cũng như bên bào chữa. Bản án của TA chỉ dựa trên cơ sở kết quả tranh tụng giữa các bên;
Có thể bạn quan tâm!
- Số Bị Can, Bị Cáo Thuộc Diện Người Được Trợ Giúp Pháp Lý Được Bào Chữa Miễn Phí Qua Các Năm Từ 2008 Đến 2013
- Hoàn Thiện Các Qui Định Của Pháp Luật Về Chế Định Người Bào Chữa
- Hoàn Thiện Các Qui Định Của Bltths Năm 2003 Và Các Văn Bản Pháp Luật Khác Có Liên Quan Đến Chế Định Người Bào Chữa
- Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương - 14
- Chế định người bào chữa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam - Lý luận và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hải Dương - 15
Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.
Thứ tư, cần qui định chế tài buộc Kiểm sát viên phải tranh luận với NBC, trường hợp không tham gia tranh luận không đối đáp lại được lập luận của bên đối tụng chính là sự thừa nhận, đồng tình với lập luận của họ. Bởi tranh tụng là việc bắt buộc theo tinh thần cải cách tư pháp, có tranh tụng mới làm
sáng tỏ sự thật để Tòa quyết định số phận của bị cáo. Tuy nhiên, thực tế hiện nay trong nhiều phiên xử, Chủ tọa phiên tòa nhắc nhở Kiểm sát viên tham gia tranh luận với NBC nhưng chỉ nhận được câu trả lời “bảo lưu quan điểm”;
- Về sự tham gia của NBC ở phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm: Tại Điều 280 BLTTHS hiện hành qui định: NBC chỉ được triệu tập tham gia phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm khi TA xét thấy cần thiết. Quy định này làm mất đi quyền bào chữa của người bị kết án tại phiên tòa giám đốc thẩm, tái thẩm. Do đó Điều 280 cần sửa đổi như sau: “TA phải triệu tập người bị kết án, NBC và có thể triệu tập những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc kháng nghị tham gia phiên tòa giám đốc thẩm”.
- Qui định về trách nhiệm của các cơ quan, người THTT: Bổ sung vào khoản 3 Điều 224 BLTTHS năm 2003 về trách nhiệm của TA trong việc ghi nhận quan điểm của NBC vào trong bản án. Bởi thực tế hiện nay, trong phần nhận định của bản án hầu như các TA không ghi ý kiến đề nghị của NBC, nếu có ghi thì cũng chỉ bằng những câu rất ngắn gọn như: “Không chấp nhận ý kiến của NBC cho bị cáo” mà không nêu rõ lý do không chấp nhận là gì. Do đó, cần quy định trách nhiệm của cơ quan, người THTT phải tôn trọng kết quả bào chữa. Các tài liệu, đồ vật do NBC cung cấp, các tình tiết, lập luận do NBC nêu ra phải được các cơ quan, người THTT xem xét. Nếu có căn cứ thì phải chấp nhận để giải quyết đúng đắn VAHS, nếu không có căn cứ thì bác bỏ và nêu lý do trong bản án hoặc quyết định tố tụng của cơ quan có thẩm quyền.
- Bổ sung quy định trách nhiệm của CQTHTT trong việc giao các quyết định tố tụng cho NBC, cụ thể là: quyết định khởi tố vụ án; khởi tố bị can; quyết định áp dụng, thay đổi biện pháp ngăn chặn, quyết định thay đổi hoặc bổ sung quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, quyết định gia hạn thời hạn điều tra vụ án, gia hạn thời hạn tạm giữ, tạm giam (nếu có); kết luận điều tra; cáo trạng; quyết định đưa vụ án ra xét xử; quyết định tạm đình chỉ hoặc đình
chỉ vụ án; bản sao bản án, thông báo về việc kháng nghị, quyết định kháng nghị; quyết định giám đốc thẩm, tái thẩm (nếu có).
- BLTTHS cần bổ sung quy định về chế tài bảo vệ NBC trong các trường hợp bị cản trở tham gia hoạt động bào chữa hoặc bị xâm hại sức khỏe, danh dự, nhân phẩm. Hiện nay, tuy pháp luật TTHS qui định quyền của NBC nhưng lại thiếu cơ chế để đảm bảo thực hiện các quyền này. Đặc biệt, chưa qui định chế tài áp dụng đối với cơ quan, người THTT khi vi phạm quyền của NBC. Với quy định của BLTTHS hiện hành về quyền của NBC so với quyền của LS bào chữa ở các nước trên thế giới thì quyền của NBC ở nước ta chưa cho phép NBC phát huy đầy đủ và hiệu quả vai trò của người gỡ tội. Mặt khác, các qui định về quyền của NBC vẫn còn những khó khăn, bất cập trong thực tiễn áp dụng. Để NBC thực hiện tốt quyền theo qui định pháp luật, thời gian tới BLTTHS năm 2003 cần phải có những sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Theo đó, BLTTHS năm 2003 nên qui định các vi phạm quyền của NBC từ phía các cơ quan, người THTT phải bị xem là những vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và không có giá trị chứng minh tại phiên tòa.
- Sửa đổi Điều 207 BLTTHS về trình tự xét hỏi theo hướng tập trung vào hoạt động tranh tụng giữa bên bào chữa và bên buộc tội. Việc xét hỏi tại phiên tòa chủ yếu do VKS giữ quyền công tố tại phiên tòa và NBC xét hỏi, Kiểm sát viên hỏi về các tình tiết chứng minh việc buộc tội, NBC hỏi về các tình tiết gỡ tội, còn HĐXX chỉ hỏi khi thấy cần thiết để kiểm tra chứng cứ buộc tội, chứng cứ gỡ tội. Các bên tham gia phiên tòa có quyền đưa ra chứng cứ và tiến hành hoạt động đối chứng. HĐXX chỉ giữ vai trò là trọng tài điều khiển và định hướng hoạt động tranh tụng giữa các bên tại phiên tòa, lắng nghe các bên trình bày ý kiến, đưa ra tài liệu chứng cứ. HĐXX có trách nhiệm xem xét, đánh giá tính xác thực của các chứng cứ, dựa vào kết quả tranh luận giữa các bên và đưa ra phán quyết. Bởi nếu qui định trình tự xét hỏi như hiện
nay: chủ tọa phiên tòa hỏi trước rồi đến các Hội thẩm, sau đó đến Kiểm sát viên, NBC sẽ dẫn đến nhiều phiên tòa, HĐXX hỏi hết đến lượt đại diện VKS bị thụ động, muốn hỏi lại không có gì để hỏi, trong khi lẽ ra trách nhiệm chính của VKS là phải chủ động đưa ra bằng chứng để chứng minh bị cáo đã phạm tội, còn trách nhiệm của HĐXX là phải chứng minh có tội phạm hay không bằng một bản án sau khi lắng nghe quá trình xét hỏi và tranh luận tại phiên toà. Với quy định trên sẽ không phân biệt rõ được trách nhiệm này của TA và VKS. Do đó, trách nhiệm buộc tội lại thuộc về HĐXX và HĐXX vừa có chức năng buộc tội vừa có chức năng xét xử. Điều đó sẽ không phù hợp với yêu cầu nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa theo tinh thần Nghị quyết số 08[21] của Bộ Chính trị.
3.3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHÁC
Từ thực tiễn TTHS trong những năm qua, nhất là từ khi vấn đề tranh tụng được ghi nhận trong các Nghị quyết của Đảng, Hiến pháp năm 2013 và với quan điểm xây dựng TTHS theo hướng kết hợp hai mô hình tố tụng tranh tụng và tố tụng xét hỏi, để đảm bảo cho NBC tham gia tố tụng có hiệu quả cần tiến hành một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao năng lực nhận thức của cơ quan, người THTT bởi quyền có NBC của NBTG, bị can, bị cáo không thể được bảo đảm nếu cơ quan, người THTT không nhận thức đúng nội dung, ý nghĩa và tầm quan trọng của nó. Đây là những chủ thể nhân danh nhà nước thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật nhằm thu thập, kiểm tra, đánh giá chứng cứ làm sáng tỏ vụ án và tiến hành giải quyết vụ án trong phạm vi quyền hạn của mình. Trước hết, họ phải nhận thức được việc bảo đảm thực hiện quyền bào chữa của NBTG, bị can, bị cáo chính là giúp cơ quan nhà nước giải quyết vụ án khách quan, toàn diện và đúng pháp luật. Đây cũng là nhiệm vụ mà Nhà nước giao cho họ thực hiện. Trong thực tế, không phải tất cả những
người THTT đều nhận thức đúng vấn đề này. Là người trực tiếp giải quyết VAHS, hơn ai hết, người THTT phải nắm vững quy định của pháp luật về quyền có NBC. Họ có nghĩa vụ phải giải thích cho NBTG, bị can, bị cáo hiểu rõ quyền bào chữa, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi để quyền này được thực hiện có hiệu quả. Muốn vậy, ngoài việc nâng cao năng lực chuyên môn, người THTT phải có ý thức tuân thủ và nhận thức một cách nghiêm túc và đúng đắn vấn đề này. Nghị quyết Hội nghị Trung ương III Khoá VIII của Ban Chấp hành trung ương Đảng nêu rõ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ tư pháp trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt và có năng lực chuyên môn. Lập quy hoạch tuyển chọn, đào tạo, sử dụng cán bộ tư pháp theo từng loại chức danh với tiêu chuẩn cụ thể”. Quán triệt Nghị quyết của Đảng, các cơ quan tư pháp, đặc biệt là cơ quan THTT đã triển khai nhiều biện pháp cụ thể để xây dựng đội ngũ người THTT vừa đủ về số lượng, vừa đảm bảo về chất lượng. Để nâng cao kiến thức chuyên môn và nhận thức của đội ngũ THTT, phải tập trung một số vấn đề sau:
- Thường xuyên đào tạo, bồi dưỡng và tập huấn cho những người THTT. Nội dung đào tạo, bồi dưỡng là những kiến thức mới về pháp luật, nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tế. Tổ chức các đợt kiểm tra kiến thức chuyên môn, đánh giá trình độ. Từ đó, có chế độ tuyên dương, khen thưởng xứng đáng. Phát động các phong trào thi đua có nội dung về đạo đức, tác phong sống, làm việc nghiêm túc, lành mạnh; coi đây là cơ sở đề xuất bổ nhiệm, miễn nhiệm;
- Thay đổi nhận thức chưa đúng đắn của những người THTT về vai trò, vị trí của NBC trong TTHS. Cần phải nhìn nhận sự tham gia của NBC là yếu tố góp phần giải quyết vụ án khách quan, đúng pháp luật. Sự có mặt của NBC trong vụ án không gây khó khăn cho các cơ quan THTT, họ chỉ bác bỏ việc buộc tội thiếu căn cứ, không đúng qui định pháp luật, chứ không phải là “đối thủ” của các cơ quan THTT. Vì vậy, người THTT cần phải tạo điều kiện cho NBC thực hiện tốt chức năng bào chữa;