dưỡng đó. Nếu mức cấp dưỡng mà các bên thoả thuận phù hợp với khả năng của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và hợp với nhu cầu của người được cấp dưỡng thì Toà án mới ra quyết định công nhận sự thoả thuận đó. Trong trường hợp sự thoả thuận của họ không phù hợp với qui định của pháp luật cũng như không đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi bên thì Toà án có thể quyết định mức cấp dưỡng.
Mức cấp dưỡng do các bên thoả thuận hoặc do Toà án quyết định cũng có thể thay đổi khi có lý do chính đáng. Các lý do này rất đa dạng: Tình trạng thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng thay đổi như họ có thêm người thân thuộc cần được cấp dưỡng; người có nghĩa vụ cấp dưỡng lập gia đình; có con chưa thành niên phải nuôi dưỡng. Do đó việc thay đổi mức cấp dưỡng phải do các bên đề đạt và thoả thuận nếu không thoả thuận được thì Toà án sẽ giải quyết. Tuy nhiên pháp luật chưa qui định thay đổi thu nhập đến mức nào và sau thời gian bao lâu kể từ ngày mức cấp dưỡng được ấn định. Trên thực tế Toà án sẽ bác đơn yêu cầu thay đổi mức cấp dưỡng được nộp chỉ sau một thời gian rất ngắn kể từ thời điểm mức cấp dưỡng được ấn định.
Như vậy mức cấp dưỡng là một yếu tố quan trọng đảm bảo cho việc cấp dưỡng đạt được những yêu cầu và mục tiêu mà pháp luật đã đề ra. Do vậy, đòi hỏi mức cấp dưỡng phải được xác định phù hợp với các căn cứ mà pháp luật qui định. Nếu xác định mức cấp dưỡng cao hơn so với khả năng thực tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng thì ảnh hưởng đến cuộc sống của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, nhưng nếu xác định mức cấp dưỡng thấp hơn so với khả năng thực tê của người có nghĩa vụ cấp dưỡng và nhu cầu hợp lý của người được cấp dưỡng thì ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người được cấp dưỡng. Khi việc cấp dưỡng được giải quyết tại Toà án thì mức cấp dưỡng phải được Toà án xem xét công nhận và quyết định phù hợp với các qui định của pháp luật.
2.1.3. Chấm dứt quan hệ cấp dưỡng
Chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng là việc người phải cấp dưỡng ngừng việc đóng góp tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người được cấp dưỡng.
Với tư cách là một quan hệ pháp luật HN&GĐ, quan hệ cấp dưỡng có thể chấm dứt khi có sự xuất hiện của các sự kiện pháp lý được qui định tại Điều 61 Luật HN&GĐ năm 2000.
- Người được cấp dưỡng đã thành niên và có khả năng lao động.
Có thể bạn quan tâm!
- Sự Cần Thiết Phải Ban Hành Luật Hn&gđ Năm 2000 Và Yêu Cầu Sự Điều Chỉnh Của Chế Định Cấp Dưỡng
- Phương Thức Cấp Dưỡng Và Mức Cấp Dưỡng
- Chế định cấp dưỡng trong pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2000 - 7
- Quan Hệ Cấp Dưỡng Giữa Ông Bà Nội, Ông Bà Ngoại Với Cháu
- Quan Hệ Cấp Dưỡng Giữa Vợ Và Chồng
- Thực Trạng Thi Hành Pháp Luật Về Cấp Dưỡng Và Những Nguyên Nhân Của Nó
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
- Người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình.
- Người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi.
- Người cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng.
- Người cấp dưỡng hoặc người được cấp dưỡng chết.
- Bên được cấp dưỡng sau khi ly hôn đã kết hôn với người khác.
- Các trường hợp khác theo qui định của pháp luật.
Trong trường hợp người được cấp dưỡng là người chưa thành niên thì nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ chấm dứt khi người đó thành niên và có khả năng lao động. Tuy nhiên chỉ áp dụng cho người chưa thành niên có quyền được cha mẹ cấp dưỡng, vì người chưa thành niên có quyền được cha mẹ cấp dưỡng kể cả khi có tài sản tự nuôi mình, nhưng người chưa thành niên chỉ được ông bà, anh chi em cấp dưỡng khi không có tài sản để tự nuôi mình. Do đó trong trường hợp này nghĩa vụ cấp dưỡng sẽ chấm dứt khi người chưa thành niên có tài sản để tự nuôi mình mặc dù người đó vẫn chưa thành niên. Bên cạnh đó pháp luật qui định đối với người đã thành niên nhưng không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình thì vẫn được cấp dưỡng nên nếu người được cấp dưỡng đã thành niên nhưng vẫn không có khả năng lao động
và không có tài sản để tự nuôi sống mình thì nghĩa vụ cấp dưỡng vẫn chưa chấm dứt.
Trong trường hợp người được cấp dưỡng là người đã thành niên thì nghĩa vụ cấp dưỡng chỉ chấm dứt khi người đó có thu nhập hoặc tài sản để tự nuôi mình. Việc một người được cấp dưỡng có thu nhập hoặc có tài sản không liên quan đến khả năng lao động của họ. Ví dụ: Một người không có khả năng lao động nhưng lại có thu nhập từ các nguồn hợp pháp khác như: Hưởng trợ cấp xã hội, trúng xổ số, được thừa kế hoặc được tặng cho tài sản… thì được coi là tình trạng khó khăn không còn và nghĩa vụ cấp dưỡng được chấm dứt. Ngoài ra căn cứ này còn áp dụng cho trường hợp anh chị cấp dưỡng cho em chưa thành niên, ông bà cấp dưỡng cho cháu chưa thành niên vì nghĩa vụ cấp dưỡng giữa ông bà và cháu chưa thành niên, nghĩa vụ cấp dưỡng giữa anh chị với em chưa thành niên xuất hiện khi người được cấp dưỡng không có tài sản để tự nuôi mình.
Trường hợp người được cấp dưỡng được nhận làm con nuôi: Khi người chưa thành niên, người đã thành niên nhưng bị tàn tật, không có khả năng lao động, không có tài sản để tự nuôi mình, người mất năng lực hành vi dân sự được người khác nhận làm con nuôi thì việc chăm sóc nuôi dưỡng người này thuộc về cha mẹ nuôi nên nghĩa vụ cấp dưỡng được chấm dứt . Một vấn đề đặt ra là liệu con chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động và túng thiếu có thể yêu cầu cấp dưỡng đối với cha mẹ đẻ khi cha mẹ nuôi không có có khả năng cấp dưỡng?
Trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng đã trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng. Như đã phân tích nghĩa vụ nuôi dưỡng và nghĩa vụ cấp dưỡng có mối liên hệ với nhau. Người có nghĩa vụ nuôi dưỡng không sống chung với người được nuôi dưỡng thì phải thực hiện nghĩa vụ của mình dưới hình thức cấp dưỡng. Sau khi nghĩa vụ cấp dưỡng xuất hiện mà người có nghĩa vụ cấp
dưỡng có điều kiện trực tiếp nuôi dưỡng người được cấp dưỡng thì nghĩa vụ cấp dưỡng chấm dứt.
Trường hợp người có nghĩa vụ cấp dưỡng và người được cấp dưỡng chết: Nghĩa vụ cấp dưỡng là nghĩa vụ về tài sản gắn liền với nhân thân của mỗi người. Quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng không thể chuyển giao cho người khác. Do đó khi người được cấp dưỡng và người có nghĩa vụ cấp dưỡng chết thì nghĩa vụ này chấm dứt. Về qui định này pháp luật thế giới có sự khác biệt với pháp luật Việt Nam. Theo pháp luật Cộng hoà Pháp, Bộ luật dân sự của Cộng hoà Pháp qui định khi người có nghĩa vụ cấp dưỡng thì nghĩa vụ cấp dưỡng được chuyển cho những người thừa kế (Điều 284).
Trường hợp người được cấp dưỡng sau khi ly hôn kết hôn với người khác: Thông thường sau khi kết hôn thì người vợ hoặc người chồng mới của họ có nghĩa vụ chăm sóc và nuôi dưỡng họ chứ không phải là người chồng hay người vợ đã ly hôn, nhu cầu của họ được đảm bảo bằng tài sản chung của vợ chồng trong cuộc hôn nhân sau. Do vậy nghĩa vụ cấp dưỡng trong trường hợp này chấm dứt. Nhưng trên thực tế lại xẩy ra rất nhiều trường hợp bên được cấp dưỡng chỉ chung sống như vợ chồng với người khác mà không đăng ký kết hôn hoặc cấp dưỡng chỉ có quan hệ tình cảm, xác thịt với người khác mà không đăng ký kết hôn thì sẽ không rơi vào trường hợp vợ chồng cấp dưỡng sau khi ly hôn (về mặt lý luận cấp dưỡng). Vấn đề sẽ trở nên rắc rối hơn nếu người này lại có con với người khác mà không có đăng ký kết hôn. Rõ ràng tuy không có đăng ký kết hôn nhưng người được cấp dưỡng đã công khai quan hệ với người khác như vợ chồng nên phải chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng.
Ngoài những trường hợp nêu trên nghĩa vụ cấp dưỡng còn có thể chấm dứt theo các qui định của pháp luật. Đây là một qui định có tính dữ liệu cấp dưỡng. Các trường hợp khác theo qui định của pháp luật được hiểu là các
trường hợp người được cấp dưỡng có hành vi xâm phạm nghiêm trọng thân thể, danh dự, nhân phẩm của người có nghĩa vụ cấp dưỡng. Luật không nói gì về việc ảnh hưởng của những hành vi đó đối với việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Tuỳ theo tính chất mức độ nghiêm trọng của hành vi người đó có thể sẽ bị chế tài Hành chính hoặc Hình sự điều chỉnh. Song có vẻ như nghĩa vụ cấp dưỡng không chấm dứt chỉ vì người được cấp dưỡng có hành vị đó. Ngược lại nếu người có nghĩa vụ cấp dưỡng có hành vi vi phạm nghiêm trọng thân thể, danh dự, nhân phẩm của người cấp dưỡng hoặc có hành vi thoái thác trách nhiệm, trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng thì cơ quan có thẩm quyền có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng hoặc đương sự có thể bị xử lý về hình sự về tội xúc phạm danh dự nhân phẩm của người khác.
Nghĩa vụ cấp dưỡng cũng có thể chấm dứt trong trường hợp chính người có nghĩa vụ cấp dưỡng lâm vào tình trạng khó khăn về kinh tế mà không còn khả năng để cấp dưỡng. Xác định tình trạng khó khăn của người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải dựa vào tình trạng sức khỏe, khả năng lao động và mức thu nhập của người đó. Ví dụ: Trường hợp một người vì tình trạng sức khoẻ của họ giảm sút, ảnh hưởng đến khả năng lao động dẫn đến thu nhập bị giảm sút, nếu họ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của chính họ. Đối với trường hợp này nghĩa vụ cấp dưỡng của họ bị chấm dứt hoặc có thể tạm thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Chúng tôi cho rằng tạm hoãn nghĩa vụ cấp dưỡng trong trường hợp này về thực chất không khác với chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng. Việc tạm ngừng nghĩa vụ cấp dưỡng có thể dừng đột ngột do sự sụp đổ nhanh chóng về kinh tế của người có nghĩa vụ cấp dưỡng, song việc tạm ngừng nghĩa vụ cấp dưỡng cũng có thể diễn ra từ từ bằng cách thay đổi mức cấp dưỡng giảm dần dần từng bước theo mức suy giảm thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng rồi đến một khi nào đó người có nghĩa vụ cấp dưỡng cảm thấy rằng nếu vẫn tiếp tục cấp dưỡng thì sẽ
ảnh hưởng trực tiếp đến cuộc sống của chính họ thì họ sẽ yêu cầu Toà án để Toà án ra quyết định chấm dứt nghĩa vụ cấp dưỡng. Người được cấp dưỡng sẽ được giao cho các tổ chức xã hội cấp dưỡng trong các trung tâm bảo trợ xã hội phù hợp theo độ tuổi và theo tình trạng sức khoẻ cụ thể của họ.
Trong trường hợp việc cấp dưỡng bị gián đoạn do người có nghĩa vụ cấp dưỡng cố tình lẩn tránh mà người được cấp dưỡng phải đi vay nợ để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của mình mà nay không có khả năng chi trả nhưng lại không tìm cách đốc thúc và bên có nghĩa vụ cấp dưỡng cũng không thông báo về việc tạm ngừng cấp dưỡng, thì phải xem xét bên có nghĩa vụ cấp dưỡng có khả năng cấp dưỡng nữa hay không để Toà án quyết định. Nếu họ vẫn có khả năng để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nhưng trốn tránh thì Toà án buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì người có quyền cấp dưỡng có thể yêu cầu cơ quan thi hành án cưỡng chế thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng bằng cách tiến hành kê biên tài sản, khấu trừ thu nhập, thậm chí xử phạt hành chính hoặc hình sự.
2.2. Các trường hợp cấp dưỡng cụ thể
Quan hệ cấp dưỡng với tư cách là một quan hệ pháp luật bắt buộc chỉ xuất hiện giữa các thành viên trong gia đình trong những hoàn cảnh đặc biệt. Điều 50 Luật HN&GĐ năm 2000 qui định: “Nghĩa vụ cấp dưỡng được thực hiện giữa cha, mẹ và con; giữa anh chị em với nhau; giữa ông bà và cháu; giữa vợ chồng theo qui định của luật này”. Như vậy quan hệ cấp dưỡng không phải xuất hiện giữa tất cả các thành viên trong gia đình mà nó chỉ xuất hiện mang tính bắt buộc đối với các chủ thể trong 04 trường hợp sau khi một bên túng thiếu và một bên có khả năng cấp dưỡng:
1. Giữa cha mẹ và con.
2. Giữa anh chị em với nhau.
3. Giữa ông bà và cháu.
4. Giữa vợ chồng sau khi ly hôn.
Sau đây chúng ta sẽ đi vào nghiên cứu các nội dung cụ thể của từng loại quan hệ cấp dưỡng
2.2.1. Quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con
Thông thường cha mẹ và con chung sống với nhau thì họ có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau nên nghĩa vụ cấp dưỡng không được đặt ra. Khoản 1, Điều 36 Luật HN&GĐ năm 2000 qui định: “Cha mẹ có nghĩa vụ và quyền cùng nhau chăm sóc, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình”. Qua đây cho thấy rằng vấn đề cấp dưỡng của cha mẹ và con cái chỉ đặt ra khi cha mẹ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng các con trong trường hợp con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Trong quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con cái có 2 trường hợp xẩy ra:
Thứ nhất trường hợp cha, mẹ cấp dưỡng cho con:
Trong mọi trường hợp giữa hai bên được pháp luật công nhận là cha mẹ - con đẻ hoặc cha mẹ - con nuôi thì giữa họ sẽ phát sinh quan hệ nuôi dưỡng. Như vậy pháp luật nước ta không phân biệt, đối xử giữa con nuôi và con đẻ, con trong giá thú và con ngoài giá thú. Do đó có thể thấy rằng giữa cha mẹ đã có sự gắn bó bởi trách nhiệm nuôi dưỡng thì đương nhiên sẽ xuất hiện quan hệ cấp dưỡng khi cha mẹ không ở chung, không có điều kiện để thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng của mình. Chúng ta ai cũng biết trẻ em có quyền được chăm sóc nuôi dưỡng đó là một quyền cơ bản của con người được pháp luật qui định và bảo vệ. Chính vì vậy trong rất nhiều trường hợp
cha mẹ có quan hệ hôn nhân bất hợp pháp nhưng quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con vẫn được đặt ra để bảo vệ quyền lợi của đứa trẻ.
* Cha mẹ cấp dưỡng cho con khi ly hôn: Theo Điều 56 Luật HN&GĐ năm 2000 qui định: “ Khi ly hôn, cha hoặc mẹ không trực tiếp nuôi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con” qui định này xuất phát từ tính chất quan hệ giữa cha mẹ và con là không phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân của cha mẹ còn tồn tại hay chấm dứt. Do đó khi ly hôn mỗi bên cha mẹ vẫn có đầy đủ các quyền và nghĩa vụ đối với con chung. Con được cha mẹ cấp dưỡng là con chung của vợ chồng bao gồm con đẻ và con nuôi. Trên thực tế xét xử các vụ án ly hôn vấn đề cấp dưỡng giữa cha hoặc mẹ cho con chung của họ đã được Toà án giải quyết rất tốt. Bởi vì trong quá trình giải quyết Toà án đã giải thích cho vợ và chồng hiểu rõ nghĩa vụ của họ đối với con chung khi họ ly hôn. Nên trong phần lớn các vụ ly hôn vợ chồng đã thoả thuận về việc nuôi con và cấp dưỡng cho con một cách thoả đáng. Rõ nhất là trong các quyết định công nhận thuận tình ly hôn, bởi vì khi vợ chồng đã thoả thuận được với nhau về việc trông nom, chăm sóc, giáo dục và cấp dưỡng cho con và sự thoả thuận đó phải đảm bảo được quyền lợi chính đáng cho con thì Toà án sẽ ra quyết định công nhận thuận tình ly hôn.
Trên thực tế có nhiều trường hợp Toà án vận dụng chưa đúng, chưa triệt để các qui định về cấp dưỡng. Cụ thể trong trường hợp vợ chồng ly hôn, người vợ hoặc người chồng xin được nuôi con vì muốn được người kia chấp thuận nên không yêu cầu người kia cấp dưỡng. Vì thấy hai bên đương sự thoả thuận nên Toà án đã quyết định dựa trên sự thoả thuận của hai vợ chồng mà không xem xét đến quyền lợi của đứa trẻ. Nhưng thực tế cuộc sống của đứa trẻ khi sống với người trực tiếp nuôi dưỡng lại không được đầy đủ mà không