Cháu đã thành niên không chung sống với ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà nội, ông bà ngoại trong trường hợp ông bà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình mà không còn người nuôi dưỡng theo qui định của luật này” [44, tr.31].
Như vậy theo các qui định trên có thể thấy rằng nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa ông bà và cháu chỉ xẩy ra khi ông bà không còn con để phụng dưỡng hoặc cháu không còn bố mẹ hay anh chị để chăm sóc nuôi dưỡng
Ông bà nội, ông bà ngoại có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu nội và cháu ngoại khi cháu chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản dể tự nuôi mình trong trường hợp cháu không còn cha mẹ hoặc không còn anh chị em hoặc tuy có cha mẹ có anh chị em nhưng những người này không có khả năng để nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng cho cháu. Pháp luật chỉ qui định ông bà có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu mà không qui định thứ tự ưu tiên trong việc thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Nên trong trường hợp một đứa trẻ cần được cấp dưỡng mà có cả ông bà nội, ông bà ngoại thì theo Điều 52 Luật HN&GĐ năm 2000 cả ông bà nội, ông bà ngoại của đứa trẻ đều có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu và họ thoả thuận với nhau về mức cấp dưỡng nếu họ không thoả thuận được thì yêu cầu Toà án giải quyết sao cho phù hợp thu nhập thực tế của bên có nghĩa vụ cấp dưỡng và đáp ứng được nhu cầu thực tế của đứa trẻ. Câu chữ của điều luật cho thấy không có sự khác biệt về trách nhiệm cấp dưỡng của ông bà nội, ông bà ngoại đối với cháu ngoại và cháu nội. Trên thực tế ở Việt Nam thì trong hầu hết các trường hợp trách nhiệm cấp dưỡng thường mang tính bắt buộc đối với ông bà nội nhiều hơn còn ông bà ngoại chỉ mang tính hỗ trợ trừ khi ông bà ngoại sống với cháu từ nhỏ.
Bên cạnh nghĩa vụ cấp dưỡng của ông bà đối với cháu là nghĩa vụ cấp dưỡng của cháu đối với ông bà. Nhưng cháu chỉ cấp dưỡng cho ông bà khi có các điều kiện sau đây:
- Ông bà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
- Ông bà không có con, anh chị em để cấp dưỡng.
Như vậy cháu chỉ có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà nội, ông bà ngoại khi cháu đã thành niên, có khả năng lao động hoặc có tài sản để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Trong trường hợp ông bà cần được cấp dưỡng mà có cả cháu nội và cháu ngoại thì các cháu đều có nghĩa vụ cấp dưỡng cho ông bà như nhau. Các cháu phải thoả thuận về mức đóng góp sao cho phù hợp với thu nhập và khả năng thực tế của mỗi người và làm sao đáp ứng được nhu cầu thiết yếu của ông bà. Nếu trong số các cháu có người không có khả năng cấp dưỡng thì họ không phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng và việc cấp dưỡng cho ông bà sẽ do những người cháu khác thực hiện.
Trên thực tế việc chăm sóc phụng dưỡng cũng như cấp dưỡng giữa ông bà và cháu được thực hiện chủ yếu dựa trên đạo lý là chính. Vì vậy việc giải quyết yêu cầu cấp dưỡng giữa ông bà và cháu tại Toà án là rất ít. Nếu có thì phần lớn là sẽ bị dư luận xã hội lên án mà thôi. Cũng có thể do sự hiểu biết pháp luật còn hạn chế nên khi ông bà hoặc cháu cần được cấp dưỡng mà người có nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng thì người có quyền được cấp dưỡng đã không đề nghị Toà án giải quyết.
Có thể bạn quan tâm!
- Chế định cấp dưỡng trong pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2000 - 7
- Các Trường Hợp Cấp Dưỡng Cụ Thể
- Quan Hệ Cấp Dưỡng Giữa Ông Bà Nội, Ông Bà Ngoại Với Cháu
- Thực Trạng Thi Hành Pháp Luật Về Cấp Dưỡng Và Những Nguyên Nhân Của Nó
- Chế định cấp dưỡng trong pháp luật hôn nhân và gia đình năm 2000 - 12
- Một Số Giải Pháp Hoàn Thiện Chế Định Pháp Luật Cấp Dưỡng
Xem toàn bộ 126 trang tài liệu này.
2.2.4. Quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng
So với quan hệ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con, quan hệ cấp dưỡng giữa ông bà và cháu, quan hệ cấp dưỡng giữa anh chị em với nhau chỉ mới xuất hiện trong Luật HN&GĐ năm 2000 thì quan hệ cấp dưỡng giữa vợ và chồng đã có từ rất sớm. Mặc dù trước cách mạng tháng tám pháp luật phong kiến
chủ yếu bảo vệ quyền gia trưởng của người đàn ông, coi rẻ quyền lợi của người phụ nữ (vợ). Người vợ phụ thuộc hoàn toàn vào người chồng và bị trói buộc đến mức hà khắc của đạo “tam tòng tứ đức”. Nhưng mối quan hệ vợ chồng vẫn được đề cao bởi nó được xem như một trong ba mối quan hệ xã hội cơ bản của Nhà nước phong kiến: Vua-tôi, cha-con, vợ-chồng. Pháp luật Việt Nam thời phong kiến cũng đã qui định khá rõ ràng trách nhiệm của người chồng đối với người vợ. Điều 308 BLHĐ và Điều 100 BLGL qui định: Người chồng bỏ lửng vợ 05 tháng (BLHĐ) hoặc 03 năm (BLGL) thì cho phép người vợ được xin phép quan cải giá. Nếu đã bỏ vợ mà ngăn cản người khác lấy vợ cũ thì phải tội biếm. Luật phong kiến còn qui định rất rõ về 03 trường hợp người chồng không được bỏ vợ “Tam bất khứ” là:
1. Người vợ đã để tang nhà chồng ba năm.
2. Trước khi lấy nhau nghèo, sau khi lấy nhau thì giàu có.
3. Khi lấy nhau có bà con, khi bỏ nhau không còn bà con để trở về.
Qua những qui định trên mặc dù điều luật không cho thấy có nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng nhưng thể hiện là người chồng phải nuôi vợ khi người chồng không nuôi vợ thì người vợ có quyền xin ly hôn. Trong Bộ dân luật bắc kỳ cũng đề cập đến vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn (Điều 144 DLBK, Điều 142 DLTK). Tuy nhiên các qui định này chỉ qui định về việc người chồng phải cấp dưỡng cho vợ. Trong mọi trường hợp sau khi ly hôn dù có lỗi hay không thì chồng phải cấp dưỡng cho vợ bởi vì sau khi ly hôn thì người vợ thường rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Tuy nhiên nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng còn dựa vào sự thủy chung. Nên khi người vợ tái giá hoặc sống ngoại hôn với người khác thì nghĩa vụ cấp dưỡng của chồng cũng chấm dứt.
Bộ dân luật Sài Gòn 1972 của chế độ Việt Nam Cộng Hòa cũng qui định khá rõ về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng tuỳ theo khả năng của
mình chồng phải cung cấp cho vợ và con những gì cần thiết cho cuộc sống. Thậm chí pháp luật còn qui định rõ trách nhiệm của người chồng khi vi phạm nghĩa vụ cấp dưỡng.
Luật HN&GĐ năm 1959 và 1986 cũng chỉ có một số điều qui định về cấp dưỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn mà chưa có những điều luật cụ thể. Kế thừa và phát huy những thành tựu của pháp luật HN&GĐ từ trước đến nay Luật HN&GĐ năm 2000 đã qui định về nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng một cách đầy đủ hơn. Theo qui định tại Điều 60 Luật HN&GĐ năm 2000 thì nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn chỉ phát sinh khi thoả mãn hai điều kiện: Thứ nhất là một bên khó khăn túng thiếu có yêu cầu cấp dưỡng và có lý do chính đáng. Thứ hai là bên kia có khả năng kinh tế để thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng. Một số nước trên thế giới pháp luật đều ghi nhận quyền và nghĩa vụ cấp dưỡng cho nhau giữa vợ chồng khi ly hôn. Một số nước coi việc cấp dưỡng giữa vợ chồng khi ly hôn như là nghĩa vụ bồi thường của người có lỗi trong việc ly hôn đối với người kia. Hầu hết các nước đều cho rằng khi vợ chồng còn tồn tại quan hệ hôn nhân thì họ chăm sóc và nuôi dưỡng nhau. Khi ly hôn họ không còn nơi nương tựa nữa nếu một bên rơi vào hoàn cảnh khó khăn túng thiếu trong cuộc sống do những nguyên nhân khách quan đem lại thì bên kia có nghĩa vụ cấp dưỡng theo khả năng. Như vậy một người chỉ được cấp dưỡng khi họ có khó khăn túng thiếu và có lý do chính đáng. Trước hết một người có khó khăn túng thiếu là người ở vào hoàn cảnh khó khăn thiếu thốn về đời sống vật chất so với mức sống tối thiểu. Nguyên nhân của tình trạng đó là do họ không có tài sản hoặc họ có tài sản nhưng tài sản đó quá nhỏ không đủ để đáp ứng nhu cầu tối thiểu của bản thân người đó. Đồng thời pháp luật đòi hỏi sự khó khăn, túng thiếu phải có lý do chính đáng. Lý do chính đáng được hiểu là không do lỗi của họ mà do các điều kiện khách quan đưa lại. Theo Nghị quyết 01/NQ-HĐTP ngày 20-11-
1988 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số điều của Luật HN&GĐ năm 1986 có lưu ý là: Trường hợp túng thiếu phải do ốm đau, già yếu, không đủ sức lao động hoặc không còn khả năng lao động để sinh sống. Luật HN&GĐ năm 2000 và các văn bản hướng dẫn thi hành không có qui định cụ thể như thế nào là tình trạng khó khăn, túng thiếu và được coi là có lý do chính đáng. Một trong những lý do chính đáng dẫn đến tình trạng khó khăn, túng thiếu chính là khả năng lao động của họ. Nếu một người có khả năng lao động nhưng không chịu khó lao động hoặc do cờ bạc, nghiện ngập mà túng thiếu thì không thể coi là có lý do chính đáng. Thực tế xét xử hiện nay các Toà án vẫn vận dụng hướng dẫn theo Nghị quyết 01/ NQ-HĐTP ngày 20-11-1988 của Hội đồng thẩm phán TANDTC để giải quyết khi vợ chồng yêu cầu cấp dưỡng. Chúng tôi thấy rằng như vậy là chưa thoả đáng vì thực tế có nhiều trường hợp có thể chấp nhận yêu cầu cấp dưỡng của một bên vợ chồng khi họ đưa ra lý do không thuộc các trường hợp nêu trong hướng dẫn theo Nghị quyết 01/ NQ-HĐTP ngày 20-11-1988 của Hội đồng thẩm phán TANDTC. Chẳng hạn khi vợ chồng ly hôn một bên nuôi con chung chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng không có khả năng lao động. Do con còn nhỏ hoặc ốm đau nên người trực tiếp nuôi con phải dành toàn bộ thời gian cho việc chăm sóc con mà không thể tham gia lao động khi vẫn đủ sức khoẻ để lao động. Một thực tế khác nữa là khi kết hôn một người đang có việc làm và thu nhập ổn định. Sau khi kết hôn do chồng hoặc vợ có thu nhập cao nên yêu cầu họ nghỉ việc ở nhà chăm lo gia đình. Khi ly hôn do tuổi cao, biến động của việc làm người đó không thể có cơ hội tìm lại việc làm khi đang có sức khoẻ và trình độ. Hoặc một người đã đóng góp toàn bộ tài sản của mình cho nhu cầu chung của gia đình, khi ly hôn họ thực sự không còn tài sản và thu nhập để đảm bảo cuộc sống. Đối với những trường hợp này, yêu cầu cấp dưỡng của họ là hoàn toàn chính đáng. Tuy nhiên việc xem xét cấp dưỡng không những chỉ tính
đến khả năng lao động mà còn phải tính đến tình trạng sức khoẻ của họ, khả năng thực tế để tham gia vào quá trình lao động như thời gian, trình độ, cơ hội được tuyển dụng... Có như vậy mới đảm bảo được quyền và lợi ích của các bên vợ chồng, nhất là đối với phụ nữ và những người có nhiều đóng góp về công sức và tài sản trong thời kỳ hôn nhân.
Một vấn đề quan trọng nữa cần phải xem xét khi giải quyết vấn đề cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi ly hôn là khả năng của bên phải cấp dưỡng. Bởi vì bên kia chỉ phải cấp dưỡng khi có đủ khả năng để cấp dưỡng. Việc xác định khả năng cấp dưỡng của một người tất yếu phải căn cứ vào tài sản, khả năng sinh lợi của tài sản và thu nhập của họ. ở nước ta hiện nay việc xác định thu nhập của một người là một vấn đề rất nan giải. Đặc biệt là việc xác định thu nhập của người làm nghề buôn bán tự do, buôn bán nhỏ, làm nghề kinh doanh dịch vụ mà không có đăng ký kinh doanh. Vì thế nhiều trường hợp vợ chồng từ chối không cấp dưỡng cho nhau vì lý do không có khả năng cấp dưỡng do không có thu nhập hoặc thu nhập không ổn định. Việc điều tra, xác minh khả năng cấp dưỡng của họ gặp rất nhiều khó khăn. Lưu ý một điều rằng tài sản và thu nhập của người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải trừ đi những chi phí thông thường cần thiết cho cuộc sống của bản thân người phải cấp dưỡng cũng như của những người mà người có nghĩa vụ phải nuôi dưỡng hoặc cấp dưỡng.
Thực tế khi giải quyết ly hôn, việc áp dụng các qui định về cấp dưỡng giữa vợ và chồng chưa triệt để, thoả đáng và rất ít xẩy ra là xuất phát từ những nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân chủ quan là do tự ái, sĩ diện hoặc lo sợ rằng nếu yêu cầu được cấp dưỡng và chứng minh tình trạng khó khăn của mình thì không được nuôi con... Vì vậy bên có khó khăn túng thiếu không yêu cầu bên kia cấp dưỡng. Nguyên nhân khách quan là do thu nhập bình quân tính trên đầu người hiện nay còn thấp. Do vậy khi vợ
chồng ly hôn cả hai bên vợ chồng cùng khó khăn, cùng túng thiếu hoặc một bên có khó khăn nhưng bên kia lại không có khả năng cấp dưỡng. Vì vậy vấn đề cấp dưỡng giữa họ không thể phát sinh. Một số trường hợp người có khó khăn, túng thiếu cho rằng nếu yêu cầu bên kia cấp dưỡng thì mức cấp dưỡng quá thấp sẽ không cải thiện được cuộc sống của họ vì vậy họ đã không yêu cầu người kia cấp dưỡng.
Một vấn đề đặt ra là khi ly hôn, nếu một bên thực sự có khó khăn nhưng bản thân họ lại không yêu cầu cấp dưỡng thì người kia có phải cấp dưỡng hay không và Toà án quyết định như thế nào? Theo qui định tại Điều 60 thì người có khó khăn túng thiếu phải yêu cầu cấp dưỡng mà có lý do chính đáng thì bên kia phải cấp dưỡng theo khả năng. Vì vậy nếu khó khăn túng thiếu nhưng không yêu cầu cấp dưỡng thì theo nguyên tắc của luật tố tụng dân sự vấn đề cấp dưỡng không phải giải quyết. Nhưng dưới góc độ của quan hệ HN&GĐ, xuất phát từ trách nhiệm, tình cảm nếu một bên có khó khăn túng thiếu thực sự dù họ không yêu cầu bên kia cấp dưỡng nhưng nếu bên kia tự nguyện cấp dưỡng thì Toà án công nhận sự tự nguyện đó và giải thích cho bên có khó khăn túng thiếu không nên vì sự sĩ diện, tự ái hay vì một lý do nào khác mà hãy đặt sự sống của mình và của người khác lên trên hết. Toà án sẽ quyết định việc cấp dưỡng.
Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ chồng không chỉ được thực hiện khi ly hôn mà cả khi hôn nhân còn tồn tại. Nghĩa vụ cấp dưỡng giữa vợ và chồng khi hôn nhân còn tồn tại phát sinh khi có những điều kiện sau:
- Khi vợ chồng sống xa nhau. Việc sống xa nhau có thể có nhiều lý do như vì điều kiện công tác, do mâu thuẫn về tình cảm không muốn ly hôn mà chỉ muốn ở riêng (ly thân) do đó xin chia tài sản chung.
- Trong điều kiện sống xa nhau mà một bên vợ chồng hoặc chồng lâm vào tình trạng khó khăn túng thiếu như mắc bệnh hiểm nghèo, thất
nghiệp, tai nạn nghề nghiệp, bị đi tù, bị nhiễm HIV-AIDS, họ rơi vào hoàn cảnh không có khả năng lao động và không có tài sản để nuôi sống mình. Sự khó khăn, túng thiếu phải có lý do chính đáng.
- Tài sản chung của vợ chồng không có hoặc có nhưng không đủ để đảm bảo cuộc sống binh thường của người túng thiếu, khó khăn trong khi đó vợ hoặc chồng có tài sản riêng
Việc qui định như vậy là cần thiết và phù hợp với điều kiện của cơ chế thị trường cũng như truyền thống đạo lý dân tộc. Việc yêu thương chăm sóc lẫn nhau giữa vợ và chồng là nghĩa vụ mang tính đạo lý xuất phát từ tình cảm yêu thương, tình yêu lứa đôi. Mục đích của hôn nhân là nhằm xây dựng gia đình hạnh phúc, bền vững, trong đó vợ chồng bình đẳng, thủy chung chăm sóc nhau một cách tự nguyện. Tuy nhiên trên thực tế có nhiều trường hợp do sự đưa đẩy của xã hội, do những nguyên nhân khác nhau dẫn đến một bên rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Người ta không thể dửng dưng trước những khó khăn đau khổ của người thân. Ở đây nghĩa vụ chăm sóc có thể là nghĩa vụ tương trợ giữa vợ và chồng về vật chất và tinh thần cho nhau. Vì vậy trong thời gian vợ chồng còn tồn tại quan hệ hôn nhân thì mỗi bên phải có ý thức chăm lo về vật chất và tinh thần cho nhau. Nếu một bên bị ốm đau tàn tật, không có khả năng lao động thì người kia phải hết lòng chăm sóc, nuôi dưỡng. nghĩa vụ đó của vợ chồng như là nghĩa vụ tự nhiên. Như vậy có thể khẳng định trong trường hợp vợ hoặc chồng không chăm lo về vật chất cho nhau tức là không thực hiện nghĩa vụ chăm sóc nhau thì phải chịu một biện pháp chế tài tương tự như trường hợp người có nghĩa vụ nuôi dưỡng mà trốn tránh thực hiện nghĩa vụ của mình thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng.