13
[45, tr.291] và khẳng định: “… tranh tụng tại phiên toà xét xử, coi đây là khâu đột phá trong CCTP nhằm bảo đảm bảo cho phán quyết của Toà án khách quan, chính xác đúng với sự thật của vụ án hình sự, vừa không bỏ lọt tội phạm, vừa không để xảy ra các trường hợp oan sai” [45, tr.292]. Tác giả khẳng định ý nghĩa của việc quy định nguyên tắc tranh tụng trong Hiến pháp năm 2013; yêu cầu triển khai thi hành đối với các cơ quan Nhà nước. Trong đó, khi tham gia phiên tòa xét xử vụ án hình sự, KSV đồng thời thực hiện hai chức năng: Thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử nên có những yêu cầu, đòi hỏi riêng trong thực hiện nguyên tắc này.
Bài viết thứ hai là “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng: Nguyên tắc hiến định quan trọng trong việc đổi mới Bộ luật TTHS Việt Nam” của La Hồng [39, tr.296- 299] đã nêu rõ “Tranh tụng được hiểu theo ba nghĩa, là: Quá trình tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng và mô hình tranh tụng” [39, tr.297]; đồng thời đi sâu trình bày về nguyên tắc tranh tụng theo quy định tại khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013, kiến nghị các giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng. Đáng chú ý, tác giả cũng thừa nhận, ở giai đoạn xét xử, phiên tòa là giai đoạn trung tâm thể hiện đầy đủ nhất bản chất quá trình tố tụng nói chung và xét xử nói riêng. Tranh tụng thể hiện rõ nét trong diễn biến phiên tòa. Tuy vậy, thực tiễn cho thấy có nhiều hạn chế trong hoạt động tranh tụng ảnh hưởng đến chất lượng tranh tụng, như “vị công tố viên đích thực đại diện cho Nhà nước buộc tội bị cáo tại phiên tòa thì lại thụ động trong việc thực hiện nghĩa vụ chứng minh của mình, im lặng và không tranh tụng, bởi lẽ, công việc này đã có Tòa “giúp sức” [39, tr.298-299].
+ Về các luận án (chuyên ngành Luật):
Luận án “Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Văn Hiển, năm 2010 [37] đã trình bày những nội dung của vấn đề nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam trong ba chương: Những vấn đề chung của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS (chương 1); sự thể hiện của nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam và thực tiễn tranh tụng trong TTHS Việt Nam (chương 2); phương hướng xây dựng và áp dụng nguyên tắc tranh tụng trong pháp luật TTHS Việt Nam (chương 3). Tác giả đã có sự trình bày khá chi tiết về các vấn đề có liên quan, đặc biệt là đưa ra quan điểm khẳng định tranh tụng trong TTHS không phải là một thủ tục, một giai đoạn và đồng nhất với tranh luận
14
tại phiên tòa; không phải là một quá trình trong TTHS, mô hình TTHS, mà là một nguyên tắc của TTHS: “những tư tưởng chỉ đạo và định hướng cho hoạt động TTHS, tồn tại khách quan và chi phối toàn bộ quá trình tố tụng…” [37]. Tác giả cũng làm rõ ý nghĩa, vị trí, mối quan hệ của nguyên tắc tranh tụng với một số nguyên tắc khác của TTHS cũng như sự thể hiện nguyên tắc này trong mô hình tố tụng tranh tụng và tố tụng xét hỏi; đánh giá thực trạng tranh tụng trong TTHS Việt Nam theo từng giai đoạn lịch sử; phân tích yêu cầu và đề xuất thể chế hóa nguyên tắc này trong pháp luật TTHS Việt Nam và các biện pháp bảo đảm.
Luận án “Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Thu Hiền, năm 2011 [35]. Tác giả đã trình bày nhiều nội dung có ý nghĩa lý luận và thực tiễn quan trọng như khái niệm tranh tụng, nguyên tắc tranh tụng trong TTHS; những ưu điểm vượt trội của tố tụng tranh tụng; các yêu cầu của nguyên tắc tranh tụng trong TTHS; các nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Toà án; các giải pháp xây dựng nguyên tắc tranh tụng. Trong đó, tác giả khẳng định nguyên tắc tranh tụng là sự định hướng cho các chủ thể trong mọi hoạt động, hành vi tố tụng theo luật định; tranh tụng cần được tranh cãi bình đẳng bằng lý lẽ dựa trên những chứng cứ, quy định pháp luật nhằm thực hiện chức năng buộc tội hoặc chức năng bào chữa; đồng thời là cơ sở để Tòa án độc lập với chức năng tài phán ra phán quyết áp dụng pháp luật có hiệu lực thi hành kết thúc quá trình giải quyết vụ án hình sự. Tố tụng tranh tụng có ưu điểm vượt trội, là cơ chế để phát huy tinh thần dân chủ trong hoạt động tố tụng. Tác giả khẳng định các tiền đề tư tưởng pháp lý về nguyên tắc tranh tụng chính là các nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án. Nguyên tắc tranh tụng trong TTHS cần phải đáp ứng các yêu cầu: Bảo đảm đạt được nội dung của nguyên tắc tranh tụng; phải xuất phát từ mục tiêu CCTP, gắn với xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN vì con người; phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam, bảo đảm được tính tối cao của luật nói chung và của TTHS nói riêng. Tác giả cũng nêu lên các giải pháp xây dựng nguyên tắc tranh tụng trên cả khía cạnh thực tiễn và pháp lý.
Có thể bạn quan tâm!
- Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 1
- Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 2
- Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 4
- Tình Hình Nghiên Cứu Ở Nước Ngoài
- Đánh Giá Tình Hình Nghiên Cứu Liên Quan Đến Đề Tài Luận Án
Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.
Luận án “Mô hình TTHS Việt Nam và vấn đề áp dụng tố tụng tranh tụng” của Nguyễn Thị Thủy, năm 2014 [104]. Luận án có mục đích nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ thống về mặt lý luận, đánh giá chính xác, khách quan mô hình TTHS
15
Việt Nam thể hiện trong pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật TTHS nước ta; trên cơ sở đó, đề xuất việc tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình TTHS tranh tụng trong quá trình hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam, đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Thực hiện mục đích đó, luận án đã làm rõ nhiều vấn đề, trong đó có việc khẳng định những yêu cầu của CCTP đặt ra đối với việc hoàn thiện mô hình TTHS nước ta; những tiền đề và thách thức đối với việc áp dụng các yếu tố của tố tụng tranh tụng ở Việt Nam. Từ đó, tác giả kiến nghị về phương hướng, giải pháp tiếp thu những hạt nhân hợp lý của mô hình TTHS tranh tụng, đề xuất các điều kiện để bảo đảm thể chế và áp dụng tố tụng tranh tụng trong mô hình TTHS nước ta.
Luận án “Bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa XXST vụ án hình sự theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam” của Hoàng Văn Thành, năm 2015 [96]. Trong luận án, tác giả nêu rõ tầm quan trọng của CCTP ở Việt Nam. Yêu cầu đối với một hệ thống tư pháp đáp ứng quyền lợi của nhân dân được tác giả nhấn mạnh, phù hợp với CCTP. Điều đó đòi hỏi phải có sự nghiên cứu thấu đáo, toàn diện về tranh tụng trong TTHS. Luận án đã đi sâu phân tích cơ sở lý luận, thực trạng, quan điểm và giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa XXST vụ án hình sự theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam. Nhiều nội dung có ý nghĩa tham khảo đối với các công trình nghiên cứu có liên quan, trong đó có đề tài luận án của nghiên cứu sinh như khái niệm, đặc điểm, nội dung, vai trò, ý nghĩa bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa XXST vụ án hình sự theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam; các giải pháp bảo đảm nguyên tắc tranh tụng trong phiên tòa XXST vụ án hình sự theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam.
Luận án “Thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm trong TTHS Việt Nam” của Nguyễn Ngọc Kiện, năm 2016 [51]. Tác giả đã phân tích và xây dựng khái niệm thủ tục xét hỏi và tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm; làm rõ mục đích, ý nghĩa của hoạt động xét hỏi và tranh luận; phân tích, chứng minh cơ sở xác định thủ tục xét hỏi, tranh luận và làm rõ mối quan hệ của nó; cũng như mối quan hệ giữa các chủ thể tham gia xét hỏi, tranh luận. Tác giả cũng làm rõ thực trạng luật thực định Việt Nam về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm; trong đó so sánh, đánh giá những điểm mới cùng vấn đề theo Bộ luật TTHS năm
16
2015. Thực tiễn thực hiện quy định của pháp luật TTHS Việt Nam về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm cũng được tác giả phân tích; qua đó, đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, vướng mắc, nguyên nhân và đề xuất giải pháp.
Luận án “Chất lượng XXST vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” của Phạm Văn Tuyển, năm 2019 [116]. Trong luận án, tác giả trình bày nhiều vấn đề về chất lượng XXST vụ án hình sự như lý luận, thực trạng, yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng XXST vụ án hình sự. Liên quan trực tiếp tới vấn đề CCTP, XXST, tranh tụng, tác giả đã phân tích những yêu cầu đặt ra đối với việc nâng cao chất lượng XXST vụ án hình sự, khẳng định: Đây là yêu cầu của CCTP ở Việt Nam. Bởi vì, nâng cao chất lượng XXST vụ án hình sự là góp phần thực hiện mục tiêu xây dựng nền tư pháp theo Chiến lược CCTP và là một trong các nội dung đột phá nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của hoạt động xét xử [116].
Luận án “Chức năng công tố trong TTHS Việt Nam và Đức” của Đàm Quang Ngọc, năm 2020 [64]. Tác giả đã làm rõ quy định pháp luật TTHS Việt Nam và Đức về chức năng công tố; xác lập các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng chức năng công tố trong TTHS Việt Nam từ kinh nghiệm của Đức. Trong luận án, nhiều nội dung được tác giả phân tích cụ thể như lý luận chung về chức năng công tố (khái niệm, đối tượng, chủ thể, nội dung, phạm vi, mối quan hệ giữa chức năng công tố với chức năng xét xử); chức năng công tố trong pháp luật TTHS Đức và Việt Nam; kiến nghị hoàn thiện pháp luật và giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng công tố trong TTHS ở Việt Nam. Những nhận định của tác giả trong so sánh mô hình tố tụng và quy định về chức năng của cơ quan công tố có giá trị tham khảo đối với các đề tài có liên quan.
Luận án “Hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXST vụ án hình sự” của Nguyễn Thị Mai, năm 2021 [63]. Tác giả làm rõ những vấn đề lý luận về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXST vụ án hình sự (khái niệm, đặc điểm, nội dung, ý nghĩa, điều kiện đảm bảo của hoạt động này); khái quát lịch sử pháp luật TTHS Việt Nam, quy định của pháp luật TTHS về hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXST vụ án hình sự và thực tiễn thi hành; các yêu cầu và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXST vụ án hình sự. Đáng chú ý, tác giả
17
đã chú trọng tới giải pháp hoàn thiện pháp luật khi lập luận sự hoàn thiện pháp luật thông qua phân tích một số điều luật có liên quan đến các nguyên tắc cơ bản của TTHS, bảo đảm hoạt động tranh tụng của chủ thể buộc tội, chủ thể gỡ tội, chủ thể điều khiển tranh tụng và quy định nhằm bảo đảm tranh tụng.
+ Về bài báo khoa học:
Bài viết “Một số mô hình TTHS trên thế giới và mô hình TTHS ở Việt Nam theo tiến trình CCTP” của Hoàng Văn Hiệu và Nguyễn Việt Hà, năm 2012 [38]. Tác giả khẳng định: Trong lịch sử, các học thuyết TTHS đã thừa nhận sự xuất hiện và tồn tại đối với những hình thức giải quyết vụ án hình sự ở mỗi quốc gia khác nhau, vào những thời điểm khác nhau, song tập trung vào bốn hình thức TTHS cơ bản, đó là: Tố tụng tố cáo, tố tụng thẩm vấn (xét hỏi), tố tụng tranh tụng và tố tụng pha trộn. Trong đó, giải thích về hình thức tố tụng tranh tụng, tác giả cho rằng:
Hình thức tố tụng này được phản ánh rõ nét nhất thông qua hoạt động tranh tụng tại phiên tòa giữa một bên là Nhà nước mà chủ thể đại diện là Tòa án và một bên là công dân bị nghi thực hiện tội phạm. Trong quá trình tranh tụng, các bên có quyền và nghĩa vụ pháp lý như nhau, có quyền đưa ra các tài liệu nhằm chứng minh làm rõ vụ án hình sự. Sự bình đẳng đó không chỉ diễn ra tại phiên tòa mà còn thể hiện ở tất cả các nội dung, các giai đoạn trong quá trình giải quyết vụ án hình sự [44].
Từ đó, tác giả nêu rõ tranh tụng trong quá trình giải quyết vụ án hình sự đã từng bước được hiện hữu, kết quả của tranh tụng ngày càng được khẳng định rõ hơn vai trò trong các quyết định cuối cùng của Tòa án.
Bài viết “Hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam theo hướng bảo đảm quyền của bị can, bị cáo” của Nguyễn Sơn Hà, năm 2013 [32]. Tác giả trình bày hai nội dung chính: Đánh giá chung về Bộ luật TTHS năm 2003 và những yêu cầu, định hướng nhằm hoàn thiện mô hình TTHS trong quá trình sửa đổi, bổ sung Bộ luật TTHS năm 2003. Trong đó, tác giả phân tích những vấn đề cơ bản của mô hình TTHS Việt Nam với những ưu điểm và hạn chế nhất định. Đối với vấn đề tranh tụng, tác giả cho rằng: Phải cải tiến các thủ tục tố tụng tại phiên tòa để bảo đảm tranh tụng một cách dân chủ, khách quan, công khai, bình đẳng giữa các bên. Xác định rõ việc buộc tội thuộc thẩm quyền của VKS, việc gỡ tội của người bào chữa, tòa án chỉ có
18
chức năng xét xử; nghiên cứu tiếp thu một số nguyên tắc đặc trưng của tố tụng tranh tụng phù hợp với yêu cầu dân chủ hóa hoạt động tố tụng, bảo đảm ngày càng tốt hơn các quyền con người; tăng cường vị trí, vai trò của VKS theo hướng công tố gắn với điều tra, tăng cường công tố trong hoạt động điều tra [32, tr.84].
Bài viết “Tranh tụng trong tố tụng: Những khiếm khuyết và hướng hoàn thiện” của Nguyễn Quang Hiền, năm 2013 [36]. Tác giả phân tích những khiếm khuyết của tranh tụng trong tố tụng (mô hình tố tụng; quy định của pháp luật tố tụng hiện hành về vị trí, vai trò, chức năng của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; việc tổ chức phiên tòa theo yêu cầu CCTP; vai trò, vị trí và hoạt động thực tế của các chủ thể tranh tụng…), làm rõ những khiếm khuyết trong quy định pháp luật về chức năng của VKS; từ đó nêu ra hướng hoàn thiện của pháp luật. Tác giả khẳng định: Tranh tụng cần được ghi nhận là một nguyên tắc cơ bản trong tố tụng và được thể chế hóa trong các quy định cụ thể của hoạt động tranh tụng.
Bài viết “Mô hình TTHS của một số nước trên thế giới và một số gợi mở cho Việt Nam trong quá trình sửa đổi Bộ luật TTHS” của Nguyễn Thảo, năm 2013 [97]. Tác giả khẳng định: Mô hình TTHS theo cách hiểu chung nhất là sự khái quát cao những đặc trưng cơ bản, phổ biến, phản ánh cách thức tổ chức hoạt động TTHS, cách thức xác định sự thật khách quan của vụ án. Cách thức tổ chức này quyết định địa vị tố tụng của các chủ thể trong quá trình thực hiện các chức năng cơ bản của TTHS (chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử). Trên thế giới có ba loại mô hình TTHS: Mô hình TTHS thẩm vấn; mô hình TTHS tranh tụng và mô hình TTHS pha trộn. Tác giả cũng phân tích những ưu điểm, hạn chế của cả ba mô hình tố tụng nêu trên, nêu rõ Việt Nam hiện đang đi theo mô hình pha trộn thiên về thẩm vấn; đồng thời đưa ra quan điểm:
Nghiên cứu các mô hình TTHS cho thấy, đến nay không tồn tại mô hình TTHS thuần túy là thẩm vấn hay tranh tụng. Trong quá trình tồn tại, các mô hình TTHS đã có sự giao thoa, tiếp nhận những yếu tố tiến bộ, tích cực của nhau để đáp ứng ngày càng cao yêu cầu phòng, chống tội phạm và bảo đảm các quyền con người trong TTHS [97].
Bài viết “Thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ở Nhật Bản và gợi mở đối với Việt Nam” của Nguyễn Ngọc Kiện, năm 2015 [49]. Tác giả trình
19
bày quy định về thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ở Nhật Bản căn cứ quy định Bộ luật TTHS năm 1948, sửa đổi, bổ sung một phần vào năm 2004 và thực tiễn thực hiện tại các phiên tòa hình sự sơ thẩm ở Nhật Bản. Qua đó, tác giả nhận định đây là mô hình tố tụng tranh tụng, đan xen một số thủ tục thẩm vấn. Việc thể hiện tính tranh tụng cao trong thủ tục xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa sơ thẩm hình sự là cơ sở bảo đảm quyền cho bị cáo, đặc biệt là quyền bào chữa và suy đoán vô tội. Những hạt nhân hợp lý của nó có thể tham khảo trong quá trình sửa đổi Bộ luật TTHS Việt Nam như không nên để tòa án biết trước hồ sơ vụ án, quy định Bản cáo trạng phải cô đọng, chỉ nêu thông tin về nhân thân của bị cáo, sự kiện cấu thành tội phạm bị truy tố, bổ sung quy định thủ tục bị cáo đưa ra ý kiến có nhận tội hay không… [49, tr.71].
Bài viết “Mô hình TTHS với yêu cầu CCTP” của Đoàn Đức Lương và Nguyễn Ngọc Kiện, năm 2015. Tác giả Đoàn Đức Lương và Nguyễn Ngọc Kiện trong bài viết “Mô hình TTHS với yêu cầu CCTP” [60], đã nêu hai dạng mô hình TTHS cơ bản trên thế giới hiện nay là mô hình TTHS thẩm vấn và mô hình TTHS tranh tụng. Đối với mô hình tố tụng tranh tụng, tác giả nhấn mạnh ưu điểm (sự đánh giá chứng cứ từ phía Thẩm phán mang tính khách quan; hình thức tố tụng phải được đáp ứng đầy đủ và coi trọng; tránh được sự xâm hại trái pháp luật và sự lạm quyền từ cán bộ tư pháp) và hạn chế (phía Nhà nước gặp khó khăn trong việc kiểm soát tình hình tội phạm, nghĩa là tội phạm có thể bị bỏ lọt; Nhà nước phải tiêu tốn nhiều hơn chi phí tố tụng do phải thiết lập một hệ thống cơ chế giám sát hoạt động tố tụng nhằm kiểm soát những sai phạm từ các hoạt động tố tụng và phiên tòa trong hệ tranh tụng thường kéo dài vì phải trải qua nhiều phiên tranh tụng. Mô hình tố tụng tranh tụng được thể hiện rõ nét trong phiên tòa “phiên tòa trong mô hình tố tụng nào thì thể hiện đặc điểm, mục đích của mô hình tố tụng đó” [60, tr.4]. Đặc biệt, tác giả không thừa nhận có mô hình tố tụng pha trộn giữa tố tụng thẩm vấn và tố tụng tranh tụng và khẳng định:
Thể chế hóa chủ trương của Đảng về tăng cường tính tranh tụng trong hoạt động TTHS, đồng thời hiểu rõ mặt hạn chế của mô hình tố tụng thẩm vấn, tiếp thu có chọn lọc những hạn nhân hợp lý của mô hình tranh
20
tụng, chúng ta đang hướng đến xây dựng mô hình tố tụng chứa đựng nhiều yếu tố tranh tụng công bằng [60, tr.8].
Bài viết “Tố tụng tranh tụng tại phiên tòa hình sự sơ thẩm ở Việt Nam, Hoa Kỳ và một số kiến nghị đối với Bộ luật TTHS (sửa đổi)” của Phạm Quang Huy, năm 2015 [41]. Tác giả đã trình bày về lược sử tố tụng tranh tụng ở Việt Nam, phân chia theo ba nhóm vấn đề: Tố tụng thời Pháp thuộc (trước 1954), tố tụng tranh tụng tại Miền Nam (1954-1975), luật sư tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm theo quy định của Bộ luật TTHS năm 2003. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu lên lý thuyết tố tụng tranh tụng ở Hoa Kỳ với sự khái quát quy trình tư pháp, quan điểm về tranh tụng ở Hoa Kỳ. Trên cơ sở đó, tác giả kiến nghị một số vấn đề liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa XXST ở Việt Nam.
Bài viết “Sửa đổi Bộ luật TTHS nhằm đảm bảo các quy định về công nhận, tôn trọng và bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp” của Trịnh Xuân Thắng, năm 2015 [100]. Tác giả nhấn mạnh Bộ luật TTHS là bộ luật liên quan trực tiếp đến những quyền thiết thân nhất của con người. Việc đảm bảo tốt hơn quyền con người trở thành một định hướng quan trọng trong Bộ luật TTHS, theo tinh thần Hiến pháp năm 2013, tác giả đưa ra những phương hướng hoàn thiện Bộ luật TTHS, trong đó khẳng định “để đảm bảo việc xét xử vụ án đúng người, đúng tội, ngoài việc tăng cường kiểm soát cần đảm bảo nguyên tắc tranh tụng, công bằng trong xét xử” [100, tr.30].
Bài viết “Những vấn đề đặt ra khi thực thi các bảo đảm tố tụng với bị can, bị cáo theo Hiến pháp năm 2013” của Vũ Hồng Anh, năm 2015 [2]. Tác giả nêu rõ cần hoàn thiện pháp luật TTHS. Những sửa đổi, bổ sung của Luật TTHS cần tập trung theo hướng tạo cho bị can, bị cáo, người bào chữa có khả năng, vị thế ngang với khả năng, vị thế của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc đi tìm sự thật cũng như việc chống lại những gì không phải là sự thật; yếu tố bảo đảm để thực hiện yêu cầu này là phải thay đổi cách nhìn về mục đích của TTHS theo hướng bình đẳng đối với các giá trị, lợi ích cần đạt được của TTHS, lợi ích của trật tự pháp lý, lợi ích của cá nhân những người tham gia tố tụng. Tác giả còn nêu quan điểm: Đặc thù của tố tụng tranh tụng là việc coi trọng chứng cứ hơn sự thật khách quan nên bên cạnh việc công nhận quyền được im lặng, quyền bào chữa,