5
- Đề xuất các quan điểm, giải pháp bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS (dưới góc độ chuyên ngành Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp luật).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi không gian: Trong phạm vi lãnh thổ Việt Nam.
- Phạm vi chủ thể: Đề tài luận án nghiên cứu chất lượng tranh tụng của chủ thể là Kiểm sát viên VKSND cấp huyện.
- Phạm vi hoạt động tranh tụng: Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS; trong đó, tập trung vào hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa xét xử sơ thẩm (XXST) hình sự, trên cơ sở quy định của pháp luật hiện hành và thực tiễn thực hiện tranh tụng tại phiên tòa XXHS của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện.
Có thể bạn quan tâm!
- Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 1
- Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 3
- Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 4
- Tình Hình Nghiên Cứu Ở Nước Ngoài
Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.
- Phạm vi thời gian: Đề tài luận án nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng chất lượng tranh tụng của chủ thể là Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS trong khoảng thời gian 2011 - 2021 (tập trung giai đoạn từ khi Bộ luật TTHS năm 2015 có hiệu lực).
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của ĐCSVN, Nhà nước Việt Nam về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, về CCTP, hoàn thiện tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận nêu trên, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: Phương pháp phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, lô-gic, lịch sử, hệ
6
thống, điều tra xã hội học… Các phương pháp được sử dụng phù hợp với mục đích và nội dung nghiên cứu.
Trong đó, một số phương pháp chủ đạo được tác giả sử dụng trong các chương của luận án như sau:
Phương pháp phân tích được sử dụng ở cả bốn chương, khi trình bày, luận giải về tình hình tổng quan (chương 1), cơ sở lý luận (chương 2), đánh giá thực trạng (chương 3), trình bày quan điểm và giải pháp (chương 4) về vấn đề chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam.
Phương pháp tổng hợp được sử dụng khi đánh giá chung về những công trình nghiên cứu có liên quan, để khái quát hóa các vấn đề đã nêu trong các công trình nghiên cứu (chương 1); tổng hợp các quan điểm của Đảng về CCTP, chức năng, nhiệm vụ của VKS theo quy định của pháp luật (chương 2); tập hợp các hoạt động tranh tụng, kết quả, hạn chế trong chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS (chương 3).
Phương pháp thống kê được sử dụng khi liệt kê các công trình nghiên cứu theo những trật tự lô-gic nhất định, theo nhóm vấn đề và trật tự thời gian (chương 1); khi xác định những nội dung đánh giá thực trạng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND cấp huyện (chương 3).
Phương pháp so sánh được sử dụng khi đối chiếu nội dung trong các công trình nghiên cứu có liên quan để tìm ra những điểm giống và khác nhau trong việc nhận định, đánh giá các vấn đề, từ đó chỉ ra những ưu điểm, hạn chế của các công trình nghiên cứu về các nội dung liên quan mật thiết tới đề tài (chương 1); khi lập luận về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND (Viện Công tố) một số nước trên thế giới, để rút ra giá trị tham khảo cho Việt Nam (chương 2).
Phương pháp lô-gic được sử dụng làm rõ các khái niệm thành phần để từ đó xây dựng các khái niệm tổng quan (chương 2); đánh giá chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo hệ thống các tiêu chí đã xác định (chương 3).
Phương pháp hệ thống được sử dụng khi khẳng định vấn đề mà đề tài luận án nghiên cứu là một vấn đề trong tổng thể các nhiệm vụ CCTP, nhằm xác định các
7
yêu cầu của CCTP đối với chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS; các yếu tố bảo đảm chất lượng tranh tụng được đặt trong mối quan hệ với các điều kiện bảo đảm về tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy Nhà nước (chương 2).
Phương pháp lịch sử được sử dụng khi đánh giá các vấn đề theo tiến trình lịch sử nhất định, gắn với những giai đoạn lịch sử và trình tự thời gian phù hợp.
Phương pháp điều tra xã hội học được sử dụng khi thu thập thông tin, làm sáng tỏ các căn cứ đánh giá thực trạng, đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS; thông qua việc phát phiếu khảo sát, xử lý số liệu thống kê; đối với các đối tượng khảo sát gồm cán bộ VKSND các cấp, luật sư trong tổ chức hành nghề luật sư, cán bộ TAND các cấp và Hội thẩm nhân dân (HTND) tham gia XXHS cấp huyện. Số phiếu phát ra để thực hiện phương pháp điều tra xã hội học 1.500 phiếu, làm cơ sở đưa ra những đánh giá khách quan, toàn diện về các vấn đề có liên quan. Các nội dung điều tra tập trung vào những vấn đề thuộc về tiêu chí đánh giá chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện; dự kiến các quan điểm bảo đảm và các giải pháp nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa hình sự hiện nay.
5. Những điểm mới của đề tài luận án
Luận án là một công trình có tính chất chuyên khảo nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam. Vì vậy, kết quả nghiên cứu đề tài sẽ mang lại một số điểm mới, có giá trị khoa học như sau:
- Kế thừa, tổng hợp, đánh giá về các công trình nghiên cứu khoa học có liên quan để xây dựng, bổ sung, hoàn thiện lý luận chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện trong XXHS. Trong đó, xây dựng khái niệm, phân tích đặc điểm, xác lập các tiêu chí đánh giá và các yếu tố đảm bảo chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP ở Việt Nam.
- Chỉ ra được một số giá trị tham khảo cho việc bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS ở Việt Nam qua việc
8
nghiên cứu mô hình tranh tụng của KSV (Công tố viên) tại phiên tòa XXHS một số nước trên thế giới.
- Xây dựng được các quan điểm, đề xuất hệ thống giải pháp bao gồm nhóm giải pháp chung và nhóm giải pháp cụ thể nhằm bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu của CCTP ở Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Về mặt lý luận
Luận án góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS trên cơ sở bám sát các yêu cầu CCTP.
6.2. Về mặt thực tiễn
- Luận án có giá trị tham khảo, giúp các cấp ủy Đảng trong tổ chức VKSND chỉ đạo nâng cao chất lượng hoạt động của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện, từ đó mở rộng tới việc nâng cao chất lượng hoạt động của KSV - chức danh quan trọng trong thực hiện quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
- Luận án là tài liệu tham khảo trong giảng dạy, học tập tại các trường đào tạo pháp luật, đào tạo KSV.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm mở đầu, 4 chương, 10 tiết, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu của tác giả đã được công bố có liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
9
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài
1.1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước
- Các công trình nghiên cứu về tranh tụng, chất lượng tranh tụng trong tố tụng hình sự
Tranh tụng - một trong những thành tựu pháp lý - đã trở thành đề tài nghiên cứu từ rất sớm của các nhà khoa học trên thế giới. Ở Việt Nam, nghiên cứu về tranh tụng và chất lượng tranh tụng trong TTHS nhận được sự quan tâm của nhiều nhà khoa học, thể hiện quan điểm trong các công trình khoa học như đề tài, sách, tài liệu, kỷ yếu hội thảo, luận án, luận văn, bài báo khoa học. Tiêu biểu là các công trình nghiên cứu sau:
+ Về đề tài khoa học các cấp:
Đối với đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, đáng chú ý có hai đề tài:
Đề tài “Vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam theo tinh thần CCTP” do Lê Hữu Thể làm chủ nhiệm, năm 2008 [101]. Với mục tiêu đưa ra các giải pháp góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động tranh tụng trong TTHS Việt Nam, tác giả đã làm rõ các vấn đề cơ bản về hệ thống tố tụng tranh tụng, hệ thống tố tụng thẩm vấn; thực trạng vấn đề tranh tụng trong TTHS Việt Nam; nhằm tạo sự thống nhất trong nhận thức và thực hiện tranh tụng theo tinh thần CCTP. Trong phần giải pháp, tác giả đã làm rõ những quan điểm của Đảng về CCTP; một số giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động tranh tụng trong TTHS; một số kiến nghị hoàn thiện các quy định về tranh tụng trong Bộ luật TTHS.
Đề tài “Xây dựng nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật TTHS mới theo Hiến pháp năm 2013” do Nguyễn Mai Bộ làm chủ nhiệm, năm 2015 [17]. Tác giả khẳng định giá trị to lớn của hoạt động tranh tụng trong việc giải quyết vụ án, bảo vệ sự công bằng và lợi ích của các chủ thể. Trong xã hội hiện đại, hệ thống tư pháp hình
10
sự của các nước dù được tổ chức theo mô hình tố tụng nào thì trong đó ít nhiều đều có yếu tố tranh tụng. Tác giả nhận định:
Thực tiễn hoạt động TTHS ở nước ta cho thấy công cuộc CCTP đã triển khai nhiều năm nhưng chưa tạo được sự chuyển biến cần thiết. Chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa còn yếu kém và mang tính hình thức, kết quả xét xử chủ yếu vẫn trong tình trạng “án tại hồ sơ”, việc truy cứu oan người vô tội vẫn thường xuyên xảy ra… [17, tr.9].
Nhận định trên cho thấy việc nghiên cứu xây dựng nguyên tắc tranh tụng trong Bộ luật TTHS mới theo Hiến pháp năm 2013 là nhu cầu cấp thiết về lý luận và thực tiễn. Do đó, đề tài được nghiên cứu đã làm rõ nhiều vấn đề có giá trị tham khảo rất lớn như: Cơ sở lý luận về xây dựng nguyên tắc tranh tụng, cơ sở pháp lý và thực tiễn của nguyên tắc này trong Bộ luật TTHS sửa đổi, xây dựng các quy định của Bộ luật TTHS mới liên quan đến tranh tụng.
Ở cấp độ đề tài nghiên cứu khoa học cơ sở, có các đề tài:
Đề tài “Hoàn thiện pháp luật TTHS nhằm nâng cao hiệu quả xét xử theo tinh thần CCTP” do Hoàng Thị Minh Sơn làm chủ nhiệm, năm 2009 [93]. Trong Chuyên đề 5 “Nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên toà XXST hình sự”; tác giả Đỗ Thị Phượng đã nêu quan điểm tranh tụng trong TTHS là một quá trình nhằm xác định sự thật khách quan của vụ án. Theo quan điểm này, tính khách quan thể hiện qua việc các chủ thể tham gia tố tụng có quyền đưa ra những tài liệu, căn cứ để làm rõ vấn đề và chứng minh nhằm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình trước HĐXX theo các trình tự, thủ tục do pháp luật TTHS quy định. Tác giả cũng trình bày về khái niệm, đặc điểm của việc tranh tụng tại phiên tòa XXST hình sự; quy định của Bộ luật TTHS hiện hành về tranh tụng tại phiên toà sơ thẩm và thực tiễn áp dụng các quy định này; một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả tranh tụng tại phiên toà XXST vụ án hình sự. Trong các giải pháp, tác giả phân tích về sự cần thiết phải sửa đổi, bổ sung các quy định của Bộ luật TTHS hiện hành về tranh tụng; một số yêu cầu đối với các chủ thể chính tham gia tranh tụng.
Đề tài “Bảo đảm quyền con người trong TTHS Việt Nam hiện nay - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” do Lê Minh Thắng làm chủ nhiệm, năm 2010 [99]. Trong đề tài này, mặc dù tác giả không trực tiếp nghiên cứu về tranh tụng, nhưng
11
trong nhiều nội dung của đề tài có đề cập đến vấn đề tranh tụng như: Tác giả nêu rõ một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng oan, sai là “xét hỏi, tranh luận tại phiên tòa còn nhiều thiếu sót, phiến diện, không đầy đủ dẫn đến việc ra bản án trái pháp luật” [99]; khi đề xuất hoàn thiện pháp luật, nguyên tắc tranh tụng được đưa lên vị trí đầu tiên “Sự tồn tại của nguyên tắc tranh tụng là sự phản ánh khách quan trong hoạt động TTHS và cần thiết phải được bổ sung vào hệ thống các nguyên tắc của TTHS” [99].
Đề tài “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS năm 2003 liên quan đến tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm - Cơ sở lý luận và thực tiễn” do Nguyễn Đức Mai làm chủ nhiệm, năm 2011 [62]. Tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận của tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm hình sự với các nội dung khái niệm, bản chất, chức năng của các chủ thể trong tranh tụng; thực trạng quy định của Bộ luật TTHS về tranh tụng tại phiên tòa sơ thẩm; định hướng hoàn thiện các quy định của Bộ luật TTHS liên quan đến hoạt động tranh tụng. Tác giả thừa nhận việc quy định tranh tụng là một nguyên tắc và đưa ra một số đề xuất sửa đổi có liên quan.
+ Về sách, tài liệu:
Trong cuốn sách “CCTP ở Việt Nam trong giai đoạn xây dựng Nhà nước pháp quyền” của tác giả Lê Cảm và Nguyễn Ngọc Chí [18], có một số bài viết về vấn đề tranh tụng trong TTHS như: Bài viết“Tố tụng tranh tụng và vấn đề CCTP ở Việt Nam trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền” của tác giả Nguyễn Ngọc Chí [20]. Trong bài viết này, tác giả đã đề cập đến đặc điểm của tố tụng tranh tụng, có sự phân tích những ưu điểm và hạn chế của loại hình tố tụng này; phân tích một số nội dung có thể tiếp thu phù hợp với TTHS nước ta để cải cách nền tư pháp ở Việt Nam đạt hiệu quả. Bài viết “Bảo đảm quyền con người trong TTHS - yêu cầu của pháp luật quốc tế và của CCTP ở Việt Nam” của tác giả Đào Trí Úc [118]. Với nhận định: Một trong những định hướng chủ đạo của CCTP ở Việt Nam hiện nay là hoàn thiện các quy định pháp luật TTHS nhằm bảo đảm một cách hợp pháp, vững chắc, đầy đủ các quyền con người theo chuẩn mực quốc tế. Một trong những bảo đảm cụ thể, trực tiếp cho các quyền con người trong hoạt động tư pháp nói chung, TTHS nói riêng là bảo đảm tranh tụng và nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Từ đó, tác giả khẳng định: “để
12
đáp ứng yêu cầu CCTP và tính pháp quyền của nền tư pháp, TTHS Việt Nam cần lấy các nguyên tắc tranh tụng, nguyên tắc suy đoán vô tội làm hai nguyên tắc trụ cột” [118, tr.176].
Trong cuốn sách “Những nội dung mới trong Bộ luật TTHS năm 2015” do Nguyễn Hòa Bình chủ biên, có bài viết “Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử và việc cụ thể hóa trong Bộ luật TTHS năm 2015” của Trần Công Phàn [70, tr.86-102], trong đó tác giả đã nêu rõ tranh tụng là thành tựu của nền văn minh nhân loại, không chỉ thể hiện bản chất nhân đạo mà còn phản ánh xu hướng phát triển dân chủ và tiến bộ của TTHS; tranh tụng được thừa nhận trên phạm vi toàn cầu. Ở Việt Nam, Hiến pháp năm 2013 đã ghi nhận tranh tụng là một nguyên tắc và nguyên tắc này cũng đã được cụ thể hóa trong Bộ luật TTHS năm 2015.
Cuốn sách “Sổ tay luật sư. Tập 2 Kỹ năng hành nghề luật sư trong TTHS, hành chính, dân sự” của Liên đoàn luật sư Việt Nam và Jica pháp luật 2020, năm 2017 [58], có nội dung “Nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử” đã phân tích các quy định của pháp luật về vấn đề tranh tụng; việc cụ thể hóa nguyên tắc tranh tụng trong xét xử theo quy định của khoản 5 Điều 103 Hiến pháp năm 2013; nhấn mạnh “bản án, quyết định của Tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa”. Đặc biệt, tài liệu nêu rõ ý nghĩa của hoạt động tranh tụng trong TTHS đối với việc đổi mới, hoàn thiện mô hình TTHS Việt Nam cũng như yêu cầu của công cuộc CCTP.
+ Về kỷ yếu hội thảo:
Trong Kỷ yếu hội thảo “Hiến pháp 2013 và vấn đề đổi mới TTHS ở Việt Nam”, do Viện chính sách công và pháp luật - Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, Ủy ban nhân dân tỉnh An Giang, Học viện Khu vực IV - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức tại An Giang ngày 30/5/2014, có hai bài viết về vấn đề tranh tụng.
Bài viết thứ nhất là “Tranh tụng tại phiên tòa theo Hiến pháp năm 2013” của Trần Thị Hương [45, tr.290-295] đã bàn về các mô hình tố tụng trên thế giới, khẳng định ưu điểm của mô hình tố tụng tranh tụng, thừa nhận “nhiều nước trên thế giới hiện nay đang xây dựng mô hình tố tụng đan xen, phát huy những ưu điểm của cả mô hình tố tụng tranh tụng và tố tụng thẩm vấn trong quá trình giải quyết vụ án”