chức năng. Khuyến khích phát triển các cơ sở khám chữa bệnh tư nhân theo quy định của pháp luật. Đảm bảo số giường bệnh và số bác sĩ đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân, cho người lao động ( Mục tiêu phấn đấu của tỉnh: đến năm 1010 có 17 giường bệnh và 4,5 bác sĩ/vạn dân).(báo cáo chính trị ĐHĐB Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV- Tr34). Đảm bảo các trạm y tế có bác sĩ công tác thường xuyên. Nâng cao hiệu quả chẩn đoán, phát hiện bệnh.
Thứ ba, tăng cường năng lực hệ thống y tế dự phòng, không để dịch bệnh lớn xảy ra, chủ động phòng chống các bệnh dịch nguy hiểm. Đảm bảo cung cấp dịch vụ y tế miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi. Thực hiện tốt công tác kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho học sinh tiểu học và trung học cơ sở, trung học phổ thông. Tiếp tục đổi mới hoạt động, mở rộng và bảo đảm quyền lợi cho đối tượng tham gia bảo hiểm y tế.
Thứ tư, cần có những chính sách cụ thể như đảm bảo cung cấp đủ, với cơ cấu dinh dưỡng hợp lý, trước hết là nhằm phòng chống suy dinh dưỡng của phụ nữ mang thai, trẻ em dưới 5 tuổi; chính sách đầu tư cho công tác chăm sóc và bảo vệ sức khoẻ. Ngoài ra cần lồng ghép các chương trình y tế với các chương trình kinh tế xã hội như công tác truyền thông về kiến thức dinh dưỡng, vệ sinh thực phẩm, về công tác bảo vệ và chăm sóc sức khoẻ đi đôi với việc triển khai các chương trình phồng chống các tệ nạn xã hội, chương trình dân số - kế hoạch hoá gia đình, phát triển thể dục thể thao, xây dựng lối sống có văn hoá, lành mạnh.
Vấn đề y tế và chăm sóc sức khoẻ cho nguồn NNL là một vấn đề không đơn giản, vì sức khoẻ con người chẳng những liên quan trực tiếp đến nhiều lĩnh vực, nhiều vấn đề của đời sống KT - XH, mà còn chịu tác động rất lớn của các nhân tố khách quan (thiên tai, môi trường sinh thái) và các nhân tố chủ quan (ý thức, đạo đức) khác. Như vậy, vấn đề đặt ra là phải trên cơ sở
tính đến sự tác động của tất cả các yếu tố mà có những chính sách, đề ra biện pháp chăm sóc sức khoẻ một cách toàn diện và lâu dài.
* Về chính sách dân số
Bên cạnh chính sách về y tế, cần quan tâm hơn nữa đến chính sách dân số, vì nó cũng ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của nguồn NNL. Tỷ lệ tăng dân số cao chẳng những làm triệt tiêu mọi cố gắng và thành quả đạt được trong phát triển kinh tế, làm gay gắt thêm các vấn đề xã hội mà còn là vật cản không cho phép cải thiện chất lượng NNL. Kinh nghiệm cho thấy không chỉ các nước phát triển mà ngay cả ở nước ta, những người có mức sống khá và trình độ học thức cao thường không có nhu cầu sinh nhiều con nhưng lại rất quan tâm đến chất lượng sống. Vì vậy trong chính sách dân số cần kết hợp vấn đề hạn chế về số lượng với việc cải thiện, nâng cao chất lượng dân số.
Trong những năm qua nhận thức rò tầm quan trọng của công tác dân số trong việc nâng cao chất lượng NNL để phát triển KT- XH, Hải Dương đã có sự quan tâm đúng mức tới công tác này nên kết quả đã có nhiều chuyển biến tích cực. Từ năm 1997 đến năm 2006 dân số giữa các nhóm tuổi đã có sự chênh lệch đáng kể, nhóm tuổi từ 0 - 15 tuổi giảm từ 33,9% năm 1997 xuống còn 24,8% năm 2006, nói lên mức sinh chung của tỉnh giảm mạnh, nếu như
năm 1997 tỷ suất sinh là 18,20‰ thì đến năm 2006 còn 15,09 ‰. Nhóm tuổi 16- 60 tăng từ 57,2% năm 1997 lên 12,1% năm 2006. Sự thay đổi tỷ trọng giữa các nhóm tuổi diễn ra khá nhanh và theo xu hướng nhóm tuổi trẻ giảm; các nhóm tuổi trong độ tuổi lao động, nhóm tuổi già tăng lên. Tỷ suất tăng tự nhiên dân số cũng liên tục giảm: từ 13,12‰ năm 1997 giảm xuống còn
9,43‰ năm 2006. Dân số Hải Dương hàng năm tăng lên trong thực tế vẫn thấp hơn mức tăng dân số tự nhiên. Điều đó phản ánh sự biến động của luồng dân cư đi làm ăn sinh sống, học tập ra tỉnh ngoài, nước ngoài là khá lớn so với lượng di cư từ tỉnh ngoài, nước ngoài trở về Hải Dương. Ước con số chênh
Có thể bạn quan tâm!
- Những Phương Hướng Chủ Yếu Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực Trong Quá Trình Công Nghiệp Hoá , Hiện Đại Hoá.
- Phương Hướng Phát Triển Nguồn Nhân Lực Ở Hải Dương Trong Thời Gian Tới.
- Phát Triển Giáo Dục Đào Tạo - Giải Pháp Cơ Bản Nhằm Nâng Cao Chất Lượng Nguồn Nhân Lực .
- Chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dương - 15
- Chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dương - 16
- Chất lượng nguồn nhân lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Hải Dương - 17
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
lệch này hàng năm khoảng 5- 8 nghìn người. Vì vậy, tỷ lệ tăng dân số của Hải Dương có xu hướng chậm lại trong những năm gần đây.
Thời gian tới để giải quyết vấn đề dân số, Hải Dương cần tiếp tục thực hiện tốt Chiến lược dân số Việt Nam 2001- 2010, Chiến lược gia đình 2004- 2010. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến và thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước về dân số, kế hoạch hoá gia đình và trẻ em, nhất là pháp lệnh dân số. Làm cho mọi cấp, mọi ngành, các đoàn thể và mỗi người dân nhận thức rò về mối quan hệ giữa dân số và phát triển. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp uỷ Đảng, chính quyền và trách nhiệm của các cơ quan đoàn thể trong thực hiện chính sách dân số. Củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống cán bộ dân số chuyên trách, mở rộng và nâng cao chất lượng đội ngũ cộng tác viên. Có cơ chế chính sách phù hợp, đảm bảo huy động các nguồn lực cho thực hiện công tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, đáp ứng yêu cầu của chiến lược dân số, phát triển NNL thời kỳ CNH, HĐH.
* Về vấn đề bảo vệ môi trường.
Để nâng cao chất lượng NNL, vấn đề bảo vệ môi trường sống cũng là một vấn đề cần được quan tâm. Đối với môi trường sống, nếu xét từ quan điểm phát triển bền vững và lâu dài phải bao gồm cả an ninh môi trường (môi trường không bị ô nhiễm, không bị thoái hoá và có khả năng tái sinh). Như vậy, để có môi trường sống đảm bảo cho sức khoẻ của nhân dân thì bên cạnh việc xử lý nghiêm túc các cơ sở gây ô nhiễm, huỷ hoại môi trường, tăng cường kiểm tra, giám sát việc thực hiện bảo vệ môi trường… cần xây dựng được một đội ngũ cán bộ có trình độ cao, các chuyên gia khoa học- công nghệ về bảo vệ môi trường. Mặt khác cần đưa nội dung giáo dục, bảo vệ môi trường vào chương trình giáo dục quốc dân. trong giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH nền kinh tế, các quy hoạch, các dự án phát triển KT- XH, các dự án đầu
tư nước ngoài, các công trình xây dựng cơ bản…đều phải xem xét, đánh giá sự tác động của chúng đối với môi trường sống và có biện pháp xử lý. Phải ngăn chặn tình trạng gây ô nhiễm môi trường mà trước hết là nguồn nước và không khí. Phải xử lý kiên quyết và thích đáng những trường hợp làm bẩn nguồn nước, gây ô nhiễm bầu không khí. Ngoài ra, nên có các biện pháp khuyến khích những dự án áp dụng công nghệ sản xuất sạch hơn.
Cùng với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội cũng có ảnh hưởng lớn và nhiều mặt đến sự phát triển của NNL. Môi trường xã hội ảnh hưởng đến chiều cao, trọng lượng cơ thể, khả năng phản xạ, tâm sinh lý, khí chất, khả năng phát triển trí tuệ. Để tạo môi trường xã hội tốt cho NNL cần phải xoá bỏ những cơ chế đã và đang kìm hãm tính tích cực, chủ động sáng tạo của người lao động, nhu cầu sống lạnh mạnh, làm việc nghiêm túc của họ. Đồng thời xây dung cơ chế mới đảm bảo giải phóng người lao động về mọi mặt để họ tự bộc lộ và phát huy tối đa sức mạnh trí tuệ, tài năng của mình.
3.2.4. Giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống cho dân cư.
Giai đoạn 2006- 2010 quá trình CNH, HĐH và đô thị sẽ diễn ra nhanh chóng nhưng cơ cấu lao động chuyển đổi chậm. Lao động làm công ăn lương ở khu vực thành thị và các khu công nghiệp có xu hướng tăng, lao động thiếu việc làm ở nông thôn có xu hướng giảm, nhìn chung thừa lao động phổ thông thiếu lao động có tay nghề, nhất là lao động có trình độ kỹ thuật cao. Yếu thế của lao động Hải Dương nói riêng, của Việt Nam nói chung trên thị trường lao động trong nước và nước ngoài bộc lộ rò hơn do hạn chế về trình độ tay nghề, chuyên môn, ngoại ngữ, kỷ luật , tác phong công nghiệp và thể lực. Tiền lương tiền công do thị trường quyết định dẫn đến không ít người lao động có thu nhập thấp. Chính điều đó đã tác động trở lại đời sống của người lao động, đến chất lượng NNL.
Dân số Hải Dương theo dự đoán đến năm 2010 là hơn 1,7 triệu người, số người trong độ tuổi lao động sẽ là 1.126.740 người. Như vậy, số lao động thiếu việc làm và chưa có việc làm năm 2010 sẽ khoảng sẽ khoảng 268.000 (200.000 chưa có việc làm tính đến năm 2005 và 68.000 lao động tăng từ 2005- 2010) thì giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống, tạo điều kiện cho NNL được nâng lên về thể lực, được học tập, bồi dưỡng trình độ chuyên môn kỹ thuật trong thời gian tới là một vấn đề bức xúc.
Cơ cấu lao động trong nông, lâm, ngư nghiệp - công nghiệp, xây dựng- dịch vụ vào năm 2010 ở Hải Dương sẽ là 55%- 25%- 20%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo là 40,4%. Tính ra mỗi năm Hải Dương phải giải quyết tạo việc làm mới cho 3 vạn lao động (trong đó xuất khẩu lao động trên 3000 người/năm).
Để thực hiện tốt vấn đề giải quyết việc làm, tăng thu nhập, nâng cao chất lượng cuộc sống dân cư cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, cho vay vốn để người lao động có được những điều kiện tiền đề phát triển kinh tế.
Bổ sung thêm nguồn vốn mới từ ngân sách nhà nước và ngân sách địa phương. Huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong các tầng lớp dân cư bổ sung vào nguồn vốn cho vay giải quyết việc làm.
Trong quá trình cho vay vốn cần gắn việc cho vay với chuyển giao công nghệ, hướng dẫn cách làm ăn cho các hộ gia đình và phát triển các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, ngành nghề truyền thống.
Tạo mọi điều kiện thuận lợi khuyến khích những địa phương, những doanh nhân có trình độ, có khả năng tổ chức sản xuất kinh doanh khôi phục và mở rộng các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, chế biến nông sản thực phẩm, sản xuất vật liệu xây dựng có khả năng thu hút nhiều lao động được vay vốn để mở rộng sản xuất.
Khuyến khích, hướng dẫn cho các cơ sở dạy nghề, cơ sở sản xuất kinh doanh vay vốn để dạy nghề hoặc tạo việc làm cho lao động.
Chú trọng đối với các doanh nghiệp sử dụng nhiều lao động nữ để đảm bảo cho họ thực hiện tốt các chức năng của mình trong gia đình và ngoài xã hội.
Thứ hai, tổ chức dạy nghề cho lao động
Giải pháp dạy nghề đã được đề cập ở trên, có thể khái quát và nhấn mạnh thêm một số điểm sau:
Đẩy mạnh xã hội hoá công tác đào tạo nghề, truyền nghề, bồi dưỡng, năng cao tay nghề cho người lao động. Xây dựng kế hoạch đào tạo và tăng cường đầu tư trang thiết bị dạy nghề cho các trường, gắn đào tạo tại trường với đào tạo tại các doanh nghiệp để nâng cao trình độ người lao động. Lao động có tay nghề cao là một trong những ưu thế thu hút đầu tư nước ngoài. Do vậy bên cạnh ưu thế về nguồn lao động trẻ của Hải Dương, nhưng phần lớn chưa được qua đào tạo cần phải thành lập mới từ 1- 2 trung tâm đào tạo nghề, dạy và truyền nghề phù hợp với yêu cầu về lao động có tay nghề của các ngành công nghiệp chủ lực của tỉnh như công nghiệp cơ khí, điện, điện tử, công nghệ thông tin, đóng và sửa chữa tàu thuỷ, công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm.
Cần có chính sách hỗ trợ đào tạo lao động đối với các doanh nghiệp đầu tư mới, sử dụng lao động tại chỗ theo phương thức hỗ trợ số tiền đào tạo hợp lý trong một khoảng thời gian nhất định tuỳ theo từng vị trí làm việc để khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh
Hàng năm tỉnh dành một nguồn kinh phí trích từ ngân sách và huy động từ các nguồn khác để hỗ trợ cho đào tạo nghề, truyền nghề, du nhập nghề mới
để đáp ứng nhu cầu lao động tại các làng nghề, các cụm công nghiệp đóng trên địa bàn các huyện, xã, thị trấn, thị tứ của tỉnh.
Thứ ba, xuất khẩu lao động
Trong những năm tới, hoạt động xuất khẩu lao động và chuyên gia phải phát triển trong hoàn cảnh trong nước và quốc tế rất khó khăn: Trình độ phát triển kinh tế của nước ta vẫn còn ở mức thấp, sức ép về việc làm còn lớn, chất lượng và cơ cấu lao động còn lạc hậu, năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và chuyên gia chưa cao. Xu thế toàn cầu hoá trong thời kỳ tới càng thúc đẩy sự phân công lao động thế giới, tạo điều kiện cho lao động và chuyên gia Việt Nam hội nhập thị trường lao động quốc tế. Thị trường lao động quốc tế có nhu cầu lớn về sử dụng lao động nước ngoài, tập trung vào một số lĩnh vực: lao động đơn giản, nặng nhọc, môi trường làm việc kém, lao động dịch vụ và giúp việc gia đình, lao động kỹ thuật cao và chuyên gia trong các ngành công nghệ cao, lao động làm việc trên biển…trong khi đó, các nước đang phát triển vẫn tăng cường xuất khẩu lao động và chuyên gia, tạo nên sự cạnh tranh gay gắt giữa các nước xuất khẩu lao động.
Trước tình hình trên, để xuất khẩu lao động được, Hải Dương cần thực hiện các giải pháp như: Phát triển thị trường lao động cả ở trong nước và nước ngoài.
Trong những năm tới, tiếp tục thực hiện mô hình liên thông giữa các doanh nghiệp xuất khẩu lao động và địa phương để ổn định, mở rộng các thị trường trọng điển, bao gồm Malaysia, Đài loan, Hàn Quốc, Nhật Bản. Ngoài ra, mở rộng thêm các thị trường ở Châu Phi, Trung Đông.
Bên cạnh đó các Trung tâm Dịch vụ việc làm tìm kiếm khai thác một số thị trường trong nước như: Hà Nội, Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh và các khu công nghiệp lớn để tư vấn và giới thiệu lao động đến làm việc.
Như vậy, để giải quyết việc làm cho người lao động nhằm tăng thu nhập nâng cao chất lượng cuộc sống cho NNL có thể thực hiện nhiều biện pháp khác nhau. Ngoài các biện pháp nêu trên cũng cần chú ý tới các biện pháp mang tính chất hỗ trợ như tổ chức các dịch vụ việc làm trong thị trường lao động, thông tin về thị trường lao động.
Nhìn chung, giải quyết việc làm cho người lao động cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ngành, các cấp trong tỉnh, giữa chính quyền và các tổ choc chính trị- xã hội; sự năng động sáng tạo của mỗi tổ chức, doanh nghiệp và mỗi người lao động.
3.2.5. Đổi mới nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy và cán bộ quản lý nhà nước nguồn nhân lực.
Quá trình CNH, HĐH hiện nay ở nước ta được thực hiện trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính vì vậy nó đòi hỏi bộ máy quản lý và cán bộ quản lý NNL phải có một năng lực trình độ thích ứng, phải được sắp xếp thành hệ thống thống nhất với chức năng, nhiệm vụ rò ràng. Cùng với bộ máy là các công cụ, chính sách vĩ mô phải phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương để nhằm mục tiêu hoạt động quản lý NNL đạt hiệu quả cao nhất. Muốn vậy, cơ cấu, tiêu chuẩn cán bộ phải phù hợp với chức năng, nhiệm vụ quản lý ở từng bộ phận, từng cấp. Số lượng cán bộ quản lý ở các ngành, đặc biệt các ngành có tác động trực tiếp đến nâng cao chất lượng NNL phải đáp ứng được các yêu cầu của công việc. Cán bộ quản lý NNL, hay làm công việc nâng cao chất lượng NNL không những là người có trình độ chuyên môn, năng lực quản lý mà còn là người có những phẩm chất đạo đức cần thiết. Một vấn đề quan trọng là đối với bộ máy quản lý về NNL cần hiểu được nội dung việc phải làm: Phải nắm vững cung cầu và sự biến động cung cầu lao động, làm cơ sở để quyết định chính sách về quy hoạch, kế hoạch phát triển NNL, phân bố và sử dụng NNL xã hội; Xây dựng, ban hành