trực tiếp đến các quyết định”. Jensen và Meckling (1976) chứng minh sự tài trợ vốn chủ sở hữu và tài trợ bằng vay nợ bên ngoài có chi phí đại diện từ các vấn đề về thông tin cũng như tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền kiểm soát doanh nghiệp. Vấn đề chi phí đại diện có thể phân tích như sau:
- Thứ nhất, mâu thuẫn giữa chủ sở hữu (người ủy quyền) và nhà quản trị (người tác nghiệp): Nhà quản trị có thể vì lợi ích riêng của mình mà không đưa ra các quyết định vì lợi ích của chủ sở hữu, thậm chí làm ảnh hưởng xấu đến giá trị doanh nghiệp, đi ngược với mục tiêu tối đa hóa giá trị doanh nghiệp. Để hạn chế tổn thất về lợi ích của mình, chủ sở hữu phải chi phí để kiểm soát, điều chỉnh hành vi nhà quản trị thông qua lương, thưởng, giám sát ... Đây chính là chi phí đại diện của vốn chủ sở hữu.
- Thứ hai, mâu thuẫn giữa chủ sở hữu và chủ nợ: Do vấn đề thông tin bất cân xứng, chủ nợ không thể có được hiểu biết về doanh nghiệp như chủ sở hữu cũng như nhà quản trị; trong khi chủ sở hữu và nhà quản trị vì lợi ích, mục tiêu của mình có thể tìm cách tăng sử dụng nợ đầu tư vào các quyết định đầu tư rủi ro song kỳ vọng lợi ích cao. Vì vậy để hạn chế rủi ro đòi hỏi chủ nợ phải tìm cách kiểm soát (ví dụ thẩm định dự án, giám sát dự án, ...) và do đó phát sinh và gia tăng chi phí. Đây chính là chi phí đại diện của nợ.
Vì vậy, cấu trúc sở hữu tập trung có tác động đến cấu trúc quản trị doanh nghiệp, các cổ đông lớn thường có xu hướng kiểm soát doanh nghiệp trực tiếp bằng cách tham gia hội đồng quản trị hoặc ban điều hành. Với số lượng cổ phần đáng kể mà các cổ đông lớn sở hữu, họ có quyền biểu quyết tương ứng nên đóng vai trò chi phối trong kiểm soát doanh nghiệp. Do đó, hệ thống sở hữu tập trung còn được xem là hệ thống nội bộ.
(ii) Sở hữu phân tán là cấu trúc sở hữu mà trong đó không có một hoặc một số cổ đông thiểu số nào sở hữu đa số cổ phiếu của doanh nghiệp và có quyền chi phối doanh nghiệp. Với hình thức sở hữu phân tán, quyền kiểm soát doanh nghiệp do ban giám đốc nắm giữ. Các cổ đông nhỏ ít có động lực để kiểm tra, giám sát các hoạt động của doanh nghiệp và không tham gia vào ban điều hành doanh nghiệp. Điều này cũng được giải thích bởi lý thuyết đại diện với vấn đề chi phí đại diện của chủ sở hữu, ngoài ra còn là vấn đề chi phí cơ hội của việc tham gia kiểm soát doanh nghiệp. Hệ thống sở hữu phân tán còn được xem là hệ thống bên ngoài.
Mỗi loại hình cấu trúc sở hữu doanh nghiệp đều có những ưu, nhược điểm. Với cấu trúc sở hữu tập trung thì các cổ đông lớn có động cơ để kiểm soát, nhờ đó giảm thiểu được vấn đề sai phạm hay gian dối trong quản trị và điều hành. Bởi vì quyền sở
hữu đáng kể của họ, những cổ đông này sẽ có động lực để kiểm soát quản lý vì họ có thể thu hồi chi phí kiểm soát, không giống như các cổ đông phân tán nhỏ. Sự giám sát lớn hơn này đảm bảo rằng các quyết định quản lý tốt được thực hiện. Những cổ đông lớn có thể ngăn chặn quản lý khỏi việc đầu tư thiếu hiệu quả. Tuy nhiên mặt trái của loại hình cấu trúc sở hữu này là các cổ đông lớn nắm quyền kiểm soát có thể dùng quyền lực của mình tác động đến các quyết định của hội đồng quản trị nhằm đem lại lợi ích cho mình; thậm chí các cổ đông lớn có khả năng sử dụng quyền lực của họ để khai thác lợi ích cá nhân từ việc kiểm soát chi phí của các cổ đông thiểu số, gây hại cho lợi ích của cổ đông thiểu số. Việc khai thác lợi ích cá nhân vượt quá việc giám sát các quyết định quản lý. Các cổ đông lớn có thể khai thác giá trị cho mình mà không cần tối đa hóa giá trị của doanh nghiệp trong khi các cổ đông nhỏ thường thiếu tiếng nói cũng như quyền lực để kiểm tra giám sát hoạt động doanh nghiệp. Trái với cấu trúc sở hữu tập trung, cấu trúc sở hữu phân tán với nhiều cổ đông sẽ giúp doanh nghiệp giảm thiểu chênh lệch mục tiêu, thực hiện các quyết định mang lại lợi ích chung cho doanh nghiệp, tối đa hóa giá trị doanh nghiệp thay vì lợi ích của một nhóm thiểu số cổ đông lớn. Tuy nhiên, trong doanh nghiệp có cấu trúc sở hữu phân tán lại tồn tại hiện tượng “Người ăn theo” khi các cổ đông không tham gia kiểm soát doanh nghiệp và hưởng lợi trên thành quả từ sự nỗ lực của các cổ đông khác là thành viên ban điều hành doanh nghiệp. Hoặc các quyết định của các cổ đông đối với những vấn đề lớn của doanh nghiệp có thể kém hiệu quả hơn do vấn đề thông tin bất đối xứng. Cấu trúc sở hữu tập trung sẽ tránh được vấn đề này và cho phép giám sát cũng như đưa ra các quyết định tốt hơn.
1.1.2. Cấu trúc sở hữu theo đặc tính cổ đông
Có thể bạn quan tâm!
- Cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư tại Việt Nam - 1
- Cấu trúc sở hữu và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp có vốn nhà nước đầu tư tại Việt Nam - 2
- Lý Thuyết Về Mối Quan Hệ Giữa Cấu Trúc Sở Hữu Và Hiệu Quả Hoạt Động Của Doanh Nghiệp
- Tổng Hợp Một Số Kết Quả Nghiên Cứu Về Trường Hợp Trung Quốc
- Tác Động Qua Lại Giữa Cấu Trúc Sở Hữu Và Hiệu Quả Hoạt Động Của Doanh Nghiệp
Xem toàn bộ 154 trang tài liệu này.
Cấu trúc sở hữu bao gồm các tỷ lệ sở hữu khác nhau liên quan đến các đặc tính của cổ đông như: sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân, và sở hữu nước ngoài; sở hữu tổ chức, sở hữu cá nhân, sở hữu gia đình ... Tùy thuộc vào các yếu tố như lịch sử, chế độ chính trị, pháp luật, sự phát triển của nền kinh tế, của thị trường vốn, ... mà loại hình cấu trúc sở hữu ở mỗi quốc gia, khu vực sẽ phát triển với mức độ, vai trò, vị trí khác nhau.
Trên cơ sở tính chất sở hữu doanh nghiệp, nếu căn cứ theo tiêu chí sở hữu nhà nước và tư nhân có thể phân loại doanh nghiệp thành: doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước, doanh nghiệp thuộc sở hữu tư nhân, doanh nghiệp sở hữu hỗn hợp; hoặc phân loại theo các loại hình doanh nghiệp chủ yếu như: doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần ... Từng quốc gia có quy định khác nhau về phạm vi tổ chức kinh tế được coi là doanh nghiệp nhà nước. Trong bộ hướng dẫn của OECD về quản trị công ty trong DNNN (OECD, 2019), bất kỳ thực thể doanh nghiệp nào được luật
pháp công nhận là doanh nghiệp, trong đó nhà nước thực thi quyền sở hữu, nên được coi là một DNNN; những doanh nghiệp này có thể là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn, hoặc công ty hợp danh hữu hạn. Điểm nhấn mạnh trong quan điểm của OECD (2019) là “nhà nước thực thi quyền sở hữu”, được hiểu là các doanh nghiệp thuộc kiểm soát của nhà nước, hoặc do nhà nước là chủ sở hữu cuối cùng của đa số cổ phần có quyền biểu quyết hoặc thực thi mức độ kiểm soát tương đương.
Sở hữu nhà nước là một thành phần cổ đông đặc biệt, theo OECD (2019), nhà nước thực hiện quyền sở hữu doanh nghiệp vì lợi ích công chúng; người dân của quốc gia mà chính phủ đó thực thi quyền sở hữu chính là chủ sở hữu cuối cùng của doanh nghiệp. Mục tiêu cuối cùng của việc nhà nước đóng vai trò chủ sở hữu doanh nghiệp, theo thông lệ tốt của các nước OECD là tối đa hóa giá trị cho xã hội, thông qua việc phân bổ hiệu quả nguồn lực.
1.2. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
1.2.1. Quan điểm về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là một phạm trù rất rộng, được tiếp cận trên nhiều khía cạnh tùy thuộc mục tiêu nghiên cứu. Trong phạm vi nghiên cứu tác động của cấu trúc vốn, cấu trúc sở hữu tới hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đa số các nghiên cứu tiếp cận hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp thông qua hiệu quả từ hoạt động kinh tế của doanh nghiệp (bao gồm hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội), và hẹp hơn là hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của một doanh nghiệp có thể được hiều là một phạm trù kinh tế phản ánh mức độ sử dụng các nguồn lực (lao động, máy móc, thiết bị, nguồn vốn…) nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp trong từng thời kỳ phát triển. Sự khan hiếm các nguồn lực của doanh nghiệp đặt ra yêu cầu nâng cao năng suất và tiết kiệm các nguồn lực trong việc tạo ra các sản phẩm hàng hóa cung ứng, đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Nhà kinh tế học người Anh Smith (1997) cho rằng hiệu quả hoạt động kinh doanh là kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế, là doanh thu tiêu thụ hàng hóa. Theo quan điểm này, hiệu quả kinh doanh được đồng nhất với kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, quan điểm của Adam Smith nhấn mạnh hiệu quả ở khía cạnh kết quả đầu ra. Cùng quan điểm, song gắn với yếu tố đầu vào, Marshall (1920) cho rằng hiệu quả hoạt động kinh doanh là quan hệ tỷ lệ giữa phần tăng thêm của kết quả và phần tăng thêm của chi phí.
Theo Bùi Xuân Phong (2010), Nguyễn Văn Công (2013), quan điểm hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp nhằm đạt được kết quả của mục tiêu hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực kinh doanh. Quan điểm này cũng có nghĩa rằng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh để thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp.
Nghiên cứu về chủ đề nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các DNNN sau CPH tại Việt Nam, Đoàn Ngọc Phúc (2014) đưa ra khái niệm hiệu quả hoạt động kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ và chất lượng sử dụng các nguồn lực sẵn có nhằm đạt được kết quả cao nhất trong hoạt động kinh doanh với chi phí bỏ ra ít nhất để đạt được kết quả đó. Theo phân tích của Đoàn Ngọc Phúc (2014), hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp là một khái niệm rộng, bao hàm hiệu quả kinh doanh cả về mặt kinh tế, xã hội; là thước đo tăng trưởng của doanh nghiệp, phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực nhằm đạt được các mục tiêu đã định; cũng như là thước đo trình độ quản lý và sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để tối đa hóa kết quả đạt được và tối thiểu hóa chi phí nhằm đạt được mục tiêu của doanh nghiệp.
Xét bản chất việc tồn tại của một doanh nghiệp tùy thuộc vào mục đích thành lập, hoạt động của doanh nghiệp đó. Trên cơ sở mục đích của doanh nghiệp, các mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp được thiết lập phù hợp. Những vấn đề này đều được quyết định bởi chủ sở hữu doanh nghiệp, tùy thuộc vào tính chất chủ sở hữu. Nếu như đối với tư nhân khi đầu tư vào các doanh nghiệp, mục đích chủ yếu là lợi ích kinh tế với mục tiêu tối đa hóa giá trị chủ sở hữu; thì đối với nhà nước, theo OECD (2019) mục đích khi tham gia đầu tư vào doanh nghiệp thường gắn với ba lợi ích đan xen, đó là lợi ích kinh tế, lợi ích xã hội và chiến lược (ví dụ phục vụ cho chính sách và chiến lược phát triển ngành, vùng; cung cấp hàng hóa, dịch vụ công cộng).
Tại Việt Nam, quan điểm của Đảng Cộng sản (Nghị quyết 12/NQ-TW năm 2017) về DNNN là “doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ hoặc cổ phần, vốn góp chi phối; được tổ chức và hoạt động dưới hình thức công ty cổ phần hoặc công ty trách nhiệm hữu hạn”. DNNN tập trung vào “những lĩnh vực then chốt, thiết yếu; những địa bàn quan trọng và quốc phòng, an ninh; những lĩnh vực mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư”. Đồng thời quan điểm đánh giá hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp này là “lấy hiệu quả kinh tế làm tiêu chí đánh giá chủ yếu”, “Tách bạch nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thông thường và nhiệm vụ của doanh nghiệp nhà nước sản xuất, cung cấp hàng hóa, dịch vụ công ích.”
Từ những quan điểm trên, trong luận án này sẽ tập trung nghiên cứu hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế, với đối tượng nghiên cứu là từng doanh nghiệp cụ thể sẽ là hiệu quả hoạt động kinh doanh. Theo đó, hiệu quả hoạt động kinh doanh là phạm trù kinh tế phản ánh trình độ và chất lượng sử dụng các nguồn lực sẵn có nhằm đạt được mục tiêu kết quả kinh doanh tối đa hoặc với chi phí bỏ ra ít nhất để đạt được mục tiêu kết quả kinh doanh đã xác định.
1.2.2. Hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp
Hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được đánh giá thông qua hệ thống các chỉ tiêu tài chính. Nghiên cứu giáo trình đào tạo được chủ biên bởi Ngô Thế Chi và Nguyễn Trọng Cơ (2009), Bùi Xuân Phong (2010), Nguyễn Văn Công (2013), và kết hợp với nghiên cứu tổng hợp của Đoàn Ngọc Phúc (2014), hệ thống về chỉ tiêu tài chính doanh nghiệp có thể được phân theo hai nhóm: các chỉ tiêu tài chính dựa trên giá trị sổ sách kế toán (hay là chỉ tiêu tài chính cổ điển) và các chỉ tiêu tài chính dựa trên giá trị thị trường (hay là chỉ tiêu tài chính hiện đại).
(1) Các chỉ tiêu tài chính cổ điển:
Chỉ tiêu tài chính cổ điển bao gồm các chỉ tiêu phản ánh (i) sức sản xuất, (ii) sức sinh lợi và (iii) suất hao phí bằng cách lấy nhóm chỉ tiêu phản ánh kết quả sản xuất kinh doanh chia cho nhóm chỉ tiêu phản ánh chi phí hoặc yếu tố đầu vào ta thu được được nhóm chỉ tiêu phản ánh sức sản xuất, sức sinh lợi.
(i) Chỉ tiêu sức sản xuất: Sức sản xuất là chỉ tiêu phản ánh một đơn vị yếu tố đầu vào hay chi phí đầu vào đem lại bao nhiêu đơn vị kết quả đầu ra. Trị số chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hiệu quả sử dụng đầu vào càng cao, hiệu quả kinh doanh càng lớn, ngược lại trị số của chỉ tiêu này càng nhỏ, phản ánh hiệu quả sử dụng đầu vào không tốt dẫn đến hiệu quả kinh doanh thấp.
Sức sản xuất = Chỉ tiêu đầu ra phản ánh kết quả sản xuất/yếu tố đầu vào hay chi phí sản xuất.
Chỉ tiêu đầu vào bao gồm:
+ Tổng tài sản: Tổng tài sản của doanh nghiệp thường được xem xét hai mặt: theo nguồn hình thành (nguồn vốn: vốn chủ sở hữu và nợ phải trả) và theo hình thức tồn tại (tài sản: tài sản cố định và tài sản lưu động).
+ Số lượng lao động sử dụng: thước đo có thể là số người lao động, giờ công, ngày công bình quân.
+ Chi phí sản xuất kinh doanh: là các khoản chi phí để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh.
Chỉ tiêu đầu ra gồm có:
+ Doanh thu thuần: là số tiền mà doanh nghiệp thu được từ bán hàng, cung cấp dịch vụ và doanh thu thuần hoạt động tài chính. Đây là chỉ tiêu phản ánh quy mô hoạt động của doanh nghiệp trên thị trường và được tính bằng công thức:
Doanh thu thuần = tổng doanh thu - các khoản khấu trừ (giảm giá hàng bán, hàng bán bị trả lại…).
+ Giá trị gia tăng: là bộ phận giá trị mới được tạo ra trong sản xuất kinh doanh (tiền lương, tiền lãi, thuế, lợi nhuận sau thuế) và được xác định bằng công thức:
Giá trị gia tăng = tổng giá trị sản xuất (tiêu thụ) - tổng giá trị hàng hóa, dịch vụ mua vào.
+ Lợi nhuận: là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh kết quả kinh doanh cuối cùng, đồng thời tổ chức sử dụng các yếu tố sản xuất của doanh nghiệp. Lợi nhuận được tính như sau: Lợi nhuận = Doanh thu thuần - tổng chi phí.
Lợi nhuận là điều kiện để doanh nghiệp sản xuất và tái sản xuất mở rộng, thực hiện các nghĩa vụ thanh toán cho các đối tượng nhà cung cấp, tổ chức tín dụng, cổ đông… Đây cũng là chỉ tiêu cơ bản đánh giá tốc độ tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp.
(ii) Chỉ tiêu sức sinh lợi: sức sinh lợi phản ánh một đơn vị yếu tố đầu vào hay một đơn vị đầu ra mang lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận (trị số của chỉ tiêu này càng lớn thì khả năng sinh lợi càng lớn và hiệu quả kinh doanh càng cao, ngược lại trị số này càng nhỏ khả năng sinh lợi càng thấp thì hiệu quả kinh doanh thấp). Các chỉ tiêu phản ánh sức sinh lợi bao gồm:
- Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn (ROI): trong quá trình kinh doanh, doanh nghiệp muốn lấy thu bù chi và có lãi, bằng cách so sánh lợi nhuận với vốn đầu tư sẽ thấy được khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp từ vốn, có thể tính bằng công thức:
ROI = Tổng lợi nhuận trước thuế và lãi vay/tổng vốn bình quân.
- Tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản (ROA): trong quá trình tiến hành hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp đều mong muốn có lãi, bằng cách so sánh lợi nhuận với tài sản đầu tư sẽ thấy được khả năng tạo ra lợi nhuận từ tài sản, có thể xác định bằng công thức:
ROA = lợi nhuận sau thuế/tổng tài sản bình quân.
Chỉ tiêu này cho biết doanh nghiệp bỏ ra 1 đồng tài sản đầu tư thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế, chỉ tiêu này càng cao, chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản tốt, đó là nhân tố góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
- Tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE): là chỉ tiêu phán ánh một đơn vị vốn đầu tư của chủ sở hữu đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế. Trị số của chỉ tiêu này càng lớn, chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp càng tốt, góp phần nâng cao khả năng đầu tư của chủ doanh nghiệp và được xác định theo công thức:
ROE = lợi nhuận sau thuế/vốn chủ sở hữu bình quân.
Trong đó, số vốn chủ sở hữu bình quân được xác định bằng trung bình giữa vốn chủ sở hữu cuối kỳ và đầu kỳ:
Vốn chủ sở hữu bình quân = (Số vốn chủ sở hữu hiện có đầu kỳ + Số vốn chủ sở hữu hiện có cuối kỳ)/2.
- Tỷ lệ lợi nhuận trên doanh thu (ROS): chỉ tiêu này cho biết một đơn vị doanh thu thuần đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế, trị số của chỉ tiêu này càng lớn, hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt và ngược lại. Trong phân tích kinh doanh, chỉ tiêu này được sử dụng như một chỉ tiêu bổ sung để đánh giá hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và được xác định theo công thức:
ROS = Lợi nhuận sau thuế/doanh thu thuần.
- Tỷ suất lợi nhuận so với chi phí (ROOE): khả năng tạo ra lợi nhuận của chi phí là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hiệu quả số tiền chi ra trong kỳ của doanh nghiệp, thể hiện trình độ tổ chức, sử dụng các yếu tố của quá trình hoạt động kinh doanh và được xác định như sau:
ROOE = Lợi nhuận sau thuế/tổng chi phí trong kỳ.
Chỉ tiêu này cho biết một đơn vị chi phí hoạt động phát sinh trong kỳ đem lại bao nhiêu đơn vị lợi nhuận sau thuế; trị số của chỉ tiêu này càng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp càng tốt, góp phần nâng cao mức lợi nhuận trong kỳ.
- Thu nhập trên cổ phiếu (EPS): là chỉ tiêu phản ánh mức lợi nhuận mà một cổ phiếu thường có được trong kỳ. Chỉ tiêu này được sử dụng rộng rãi trong công ty cổ phần và được xác định như sau:
EPS = (Lợi nhuận sau thuế - Cổ tức chi trả cho cổ phiếu ưu đãi)/số lượng cổ phiếu thường bình quân đang lưu hành.
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ phân tích, các cổ đông đầu tư 1 đồng cổ phiếu phổ thông theo mệnh giá thì thu được bao nhiêu đồng lợi nhuận, chỉ tiêu này càng cao càng hấp dẫn các nhà đầu tư.
(iii) Chỉ tiêu suất hao phí: suất hao phí là chỉ tiêu cho biết để có một đơn vị đầu ra phản ánh kết quả sản xuất hay lợi nhuận doanh nghiệp phải hao phí bao nhiêu đơn vị chi phí hay yếu tố đầu vào. Trị số này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả kinh doanh càng cao, càng lớn hiệu quả kinh doanh càng thấp:
Suất hao phí = yếu tố hay chi phí đầu vào/kết quả đầu ra Chỉ tiêu suất hao phí bao gồm:
+ Chỉ tiêu suất hao phí tính theo chi phí = tổng chi phí sản xuất sản phẩm trong kỳ/Tổng số sản phẩm (giá trị) sản xuất trong kỳ.
Chỉ tiêu này phản ánh để sản xuất một đơn vị sản phẩm doanh nghiệp bỏ ra bao nhiêu đồng chi phí.
+ Suất hao phí tài sản = tài sản bình quân/Doanh thu thuần.
Chỉ tiêu này cho biết, doanh nghiệp thu được một đồng doanh thu thuần thì cần bao nhiêu đồng tài sản đầu tư.
+ Suất hao phí tài sản so với lợi nhuận sau thuế = Tài sản bình quân/lợi nhuận sau thuế.
Chỉ tiêu này cho biết, doanh nghiệp thu được một đồng lợi nhuận thì cần bao nhiêu đồng tài sản.
Với quan điểm hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phản ánh trình độ, chất lượng sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp nhằm đạt được kết quả của mục tiêu hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, theo Bùi Xuân Phong (2010), Nguyễn Văn Công (2013) và Đoàn Ngọc Phúc (2014), để đánh giá hiệu quả kinh doanh thông qua các chỉ tiêu phản ánh sức sản xuất, suất hao phí và sức sinh lợi. Ngô Thế Chi và Nguyễn Trọng Cơ (2009) cho rằng khi phân tích hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp cần chú trọng đến phân tích khả năng sinh lợi, lợi nhuận chính là kết quả
hoạt động cuối cùng của doanh nghiệp.
(2) Các chỉ tiêu tài chính hiện đại
- Các chỉ tiêu đo lường hiệu quả dựa trên giá trị gia tăng thị trường (MVA) và giá trị gia tăng kinh tế (EVA), được tính toán như sau:
MVA = giá trị thị trường của vốn chủ sở hữu – vốn chủ sở hữu đã cung ứng.