được Hoan, người đồng nghiệp thấu hiểu cảm nhận sâu sắc tâm hồn cô đơn của Khiêm thì anh mới thật sự tìm thấy được tình yêu và sự đồng cảm trong tâm hồn. Đối với Khiêm, Hoan là nguồn vui sống vô tận của anh. Nhưng rồi tình yêu ấy cũng bị ngắt quãng, anh bơ vơ vô cùng. Trải qua quá trình vật lộn giằng xé nội tâm mãnh liệt, Khiêm đã “sống trở lại”, vượt qua cơn choáng váng cùng sự đa cảm, anh đã lao vào công việc để tìm lại chính mình.
Tự trong Đám cưới không có giấy giá thú là người thầy giáo có tài và có tâm, có tâm hồn nhạy cảm, yêu cái đẹp, yêu văn chương nhưng lại phải đối diện với cuộc sống đầy rẫy những bon chen, những cạm bẫy trong cuộc sống. Càng ngày anh càng cảm thấy vai trò của người thầy bị phủ nhận. Trước sức mạnh của cơn lốc vật chất, anh trở nên lánh xa cái phồn tạp, trần ai, tách ra khỏi đời sống đang bị tước dần những giá trị đích thực, anh làm bạn với cái gác xép nhỏ, “ở trên này, Tự có thể để nguyên cho hai hàng nước mắt giàn giụa qua đôi má gầy” [29,14]. Tự đau đớn nhận ra một điều oan trái: “Tư cách là thứ hàng có giá cả. Tình cảm cũng vậy. Người có lương tâm luôn bơ vơ. Kẻ có tri thức suốt đời buồn. Thời buổi này tạo ra bi kịch đó. Hay bi kịch vốn nằm ở trong bản thể cuộc sống [29,80]. Chứng kiến những người bạn thân của mình cứ mất dần phẩm chất, Tự băn khoăn đặt ra những câu hỏi và lại tự trả lời với nỗi buồn day dứt. Bị vợ phản bội, tâm hồn Tự lại bị tổn thương một phần lớn, anh gặm nhấm nỗi bất hạnh của mình trong đau khổ khôn nguôi. Anh khóc thương cho thân phận mình bị vùi dập, bị vợ phản bội mà không biết giấu nước mắt đi đâu. Thể hiện những dòng tâm lý chảy trong nhân vật Tự, tác giả đã gieo vào lòng người đọc sự đồng cảm, xót thương cho nhân cách sáng ngời của một thầy giáo bị vùi dập. Nhưng Tự vẫn giữ niềm tin vào cuộc sống “sau những giờ phút ồn ã, tất bật, được tĩnh lặng, Tự mới nhận ra con người ta thật sự là giàu có và chẳng khi nào có thể bị tước đoạt hết sạch được. Người xưa thường nói chính thì tĩnh, tĩnh thì sáng. Điều đó hoàn toàn đúng với anh lúc này. Cơn mưa gột rửa bầu trời. Sự yên tĩnh lau rửa tâm hồn anh”. [29, 278].
Trong sáng tác của Hồ Anh Thái, nhân vật của anh sống với một cuộc hành trình tâm lý đa dạng, phong phú, phức tạp.Với khả năng phân tích diễn biến tâm trạng nhân vật một cách tinh tế nhạy bén, Hồ Anh Thái đã tạo dựng được một hệ thống hình tượng nhân vật có một đời sống tinh thần sâu sắc, thâm trầm nhằm biểu đạt những quan niệm của mình về con người và thời cuộc. Hiện thực đời sống, tâm trạng của con người trong tác phẩm của anh bao giờ cũng gắn liền với những biến cố khách quan và chủ quan mà họ gặp phải trong đời. Chúng ta thấy rằng, nhân vật của Hồ Anh Thái thường bị tác động dữ dội từ môi trường sống. Những biến cố dù là nhỏ nhặt đều khiến những nhân vật của Hồ Anh Thái suy nghĩ trăn trở và đôi khi những sự kiện nằm ngoài dự kiến xảy ra cũng đủ gây nên những cú sốc nặng nề trong thế giới nội tâm của họ.
Người và xe chạy dưới ánh trăng là một tác phẩm dào dạt chất thơ và có những trang phân tích tâm lý nhân vật rất thành công. Ta thấy cái nhìn rất sắc sảo của Hồ Anh Thái trong việc nắm bắt, mổ xẻ những rung động tinh tế trong tâm hồn nhân vật đặc biệt là nhân vật Toàn - một con người có đời sống nội tâm phong phú và nhạy cảm. Miêu tả những dòng cảm xúc của Toàn, nhà văn thường đặt nhân vật trước những gì xảy ra xung quanh. Lần bắt gặp Khắc đọc trộm bản thảo của mình “Toàn thân Toàn dường như căng ra. Anh thường có một cảm giác rất lạ khi bất chợt thấy có người đang tự ý đọc bản thảo hoặc sổ thơ của mình: Tim khua dồn, đầu óc choáng váng, lạnh buốt, như có người đang ngắm bắn mình. Cùng lúc là cảm giác bị người khác nhìn chằm chằm, trong lúc mình cởi bỏ quần áo ngoài” [36,43- 44] hay khi lần đầu gặp Mỵ, Toàn đã nhớ về “Một thời xa xôi lắm, anh cũng đã được nghe một giọng con gái dễ thương? Mùi chả nướng ngào ngạt trên bếp than. Mùi thơm rau ngổ, rau diếp cá, rau húng láng.” [36,45].
Để khắc họa tâm lý nhân vật thành công, Hồ Anh Thái sử dụng rất linh hoạt thủ pháp nghệ thuật độc thoại nội tâm. Nhà văn đã rất nhạy cảm trong việc nắm bắt tâm lý nhân vật, đã dõi theo, thể hiện rất hay những diễn biến trong tâm lý Toàn. Nhiều sự kiện, tình huống vốn là cảnh đời sống hết sức bình thường diễn ra hàng ngày lại được
tác giả đánh giá, cảm nhận qua tiềm thức sâu thẳm của Toàn. Trước vô vàn những tình huống của cuộc sống, Toàn đã có những suy nghĩ tự đánh giá, tự mổ xẻ bằng những lời độc thoại nội tâm, có lúc tâm trạng của anh bị giằng xé rất mãnh liệt. Trong đêm chứng kiến cảnh Trang và Hiệp ở bên nhau, “Toàn phát run lên… tim Toàn đang nhảy điên cuồng như một con ngựa ăn phải cỏ dại” [36, 282]. Trong anh như có hai con người đang tranh đấu, một kẻ bảo “Đừng gây rắc rối cho bạn mình, đó là người bạn thân thiết” nhưng lập tức một kẻ khác gầm lên “Không đời nào, tình yêu chân chính không được phép nản lòng. Hai kẻ đó ở trong lòng Toàn, hành hạ cậu cho tới lúc trời sáng” [36,283]. Khi nghe Minh quyết định định cư ở nước ngoài thì “một nỗi đau cồn lên trong lòng Toàn, vật vã như những đợt sóng lòng – Toàn cắn chặt răng chịu đựng những cơn đâm thúc ở bên trong. Đất nước mình chịu nhiều đau khổ như vậy chưa đủ hay sao, lại thêm những đứa con vẫn tiếp tục bỏ đất nước ra đi? Toàn đi qua cuộc chiến tranh, mất cha mẹ, mất cả sự hồn nhiên thơ trẻ trong tâm hồn. Tưởng rằng hết chiến tranh sẽ không mất gì nữa, thế mà anh lại bị tước mất khát vọng được tiếp tục học lên và sẽ có nguy cơ bị mất một người bạn. Tại sao tạo hóa cho con người cái quyền sống, đồng thời lại lấy mất của họ những điều thiêng liêng và hành hạ họ khổ sở như vậy?” [36, 259]. Tâm trạng của Toàn được diễn tả sinh động, buồn vui lẫn lộn. Khi ở những nơi đông đúc nhốn nháo, Toàn thấy buồn vì không thấy rõ một ai, không thấy rõ cả chính mình, giữa đám đông anh thấy mình đơn côi nhưng khi chỉ còn lại một anh lại cảm thấy mình luôn có đôi. “Một con người luôn ở trong anh, luôn sẵn sàng trò chuyện, trả lời” [36, 119]. Hồ Anh Thái đã rất tinh tế khi miêu tả những biến thái hết sức tinh vi và cả những chuyển biến hết sức tích cực trong tâm hồn một người thanh niên tràn đầy ước vọng như Toàn. Anh là hình ảnh của một con người cô đơn phải trải qua những tháng ngày giông bão nhưng vẫn tha thiết hướng ra cuộc đời, hướng về những điều tốt đẹp của cuộc sống. Cách miêu tả tâm lý nhân vật Toàn một cách sâu sắc là cả một quá trình xây dựng và phát triển phù hợp với logíc bên trong của tính cách nhân vật, qua đó giúp người đọc hiểu thêm những suy nghĩ, đánh giá của tác giả về cuộc sống và con người.
Trong Người và xe chạy dưới ánh trăng, Hồ Anh Thái không chỉ chú ý miêu tả diễn biến tâm lý của những nhân vật tích cực như Toàn, Trang, Hiệp… mà nhà văn còn rất thành công khi miêu tả những diễn biến tâm lý hết sức tinh vi diễn ra trong một con người tha hóa nhân cách như nhân vật Khuynh. Khuynh là hình ảnh của một con người đầy tham vọng và gian xảo. Sống trong sự ngột ngạt bởi sự tác oai tác quái của người vợ đáo để, Khuynh phải trải qua những trạng thái tinh thần phức tạp. Muốn thoát ra khỏi cuộc sống ngột thở nhưng anh hoàn toàn bất lực. Trước một con người tinh quái như Diệu, Khuynh trở thành một con người nhu nhược, hèn yếu đáng thương. Những đau khổ dằn vặt mà Khuynh phải chịu đựng trong cuộc sống gia đình được Hồ Anh Thái khắc hoạ sâu sắc: “Khuynh căm ghét Diệu thế nào thì cũng ghét thằng Sa như thế. Cái thằng đẹp trai một cách trơ trẽn, nét mặt giống Khuynh như một bản sao, nhưng ánh mắt thì thâm hiểm và trắng trợn như mẹ nó… Mỗi lần nhìn thấy cái mặt khốn nạn của nó, Khuynh cảm thấy nỗi nhục của mình bị day đi day lại. Sau khi bị Diệu cắn xé Khuynh chỉ muốn tát, muốn đấm vào mặt thằng Sa” [36,309]. Không làm gì để trả thù được Diệu, trong con người Khuynh như có “một mối thù hận đang hừng hực, như sắp đốt cháy thân thể thành tro. Cái con yêu tinh kia đâu rồi? Phải tìm mọi cách phanh thây nó ra. Cái thằng tiểu yêu kia đâu rồi? Phải đập vỡ mặt nó. Nhưng Khuynh đã làm được gì? Khuynh đã thua nó một keo nhục nhã… Vậy Khuynh bất lực ư? Cuộc đời Khuynh chịu nằm trong vòng cương tỏa của chúng nó, để chúng nó mặc sức hành hạ, mặc sức phá hoại hạnh phúc của Khuynh” [36, 351- 352]. Trong lúc cơn bực dọc lên đến đỉnh điểm, nhìn thấy con sáo của cu Đức, Khuynh lú lẫn và hình dung nó là Diệu “Kẻ đã đầu độc Khuynh mấy chục năm, kẻ Khuynh căm thù nhất đã hiện hình ra đó. Mày còn vênh váo tự đắc lắm nhỉ? Mày còn sung sướng nhẩn nhơ lắm nhỉ?” [36, 35]. Khuynh đã lấy súng bắn chết con chim sáo. Nhưng “báo thù được rồi, bắn được chim sáo rồi nhưng Khuynh không cảm thấy nhẹ nhõm chút nào. Có điều gì nhầm lẫn ở đây chăng?” [36,.356]. Khuynh đau đớn khi bấy lâu nay mình đã nhầm lẫn, đã phạm sai lầm lớn đã gây nên tội vì “bắn nhằm mục tiêu, đã giết oan nhiều
sinh vật vô tội. Oan hồn của chúng đã trả thù Khuynh” [36,356]. Khuynh nhận thấy tình trạng thảm hại của mình “Khuynh không còn đủ sức để gào thét, đập phá và tiêu diệt một cái gì. Càng không diệt nổi vì chúng từ trong máu mình chui ra” [36, 357]. Khuynh trở nên vô hồn, mất hết ý thức tự chủ, lao ra khỏi nhà “chạy roàm roạp trên con đường nước ngập quá đầu gối” và “Giờ đây Khuynh chẳng cần gì giữ gìn tư thế chức vụ, phẩm hàm, tước bỏ hết cả rồi. Trước mắt Khuynh chỉ còn người đần bà bị rạch mặt và căn nhà có căn phòng tắm nước nóng kia” [36,360].
Qua việc miêu tả, phân tích những diễn biến tâm lý của Toàn và Khuynh, Hồ Anh Thái muốn phản ánh một bức tranh đối lập giữa mảng sáng và mảng tối trong hai tâm hồn. Toàn là đại diện của một tâm hồn nhạy cảm, trong sáng, lý trí bao nhiêu thì Khuynh lại là kẻ đầy tham vọng và dục vọng bấy nhiêu. Cái tham vọng đã khiến Khuynh rơi vào tình trạng quẫn bách khốn cùng. Khuynh không đủ lý trí và sức mạnh để vượt qua những tham vọng cá nhân nên chính anh đã bị những ham muốn thấp hèn đó đánh gục. Khi nhận ra thì đã trắng tay, quyền lực mất, hạnh phúc gia đình cũng không còn, để làm lại cũng đã quá muộn, Khuynh chỉ còn bám víu vào “một thứ tình yêu cuối mùa với người đàn bà bộ mặt nhàu nát vì bị xẻ rạch”, ngoài ra, không còn gì hứa hẹn anh ở phía trước. Mọi thứ đều hổng rỗng. Mà cơ hội và thời gian không còn nữa” [36, 358]. Xây dựng nên hình ảnh của Khuynh với kết cục thảm hại, Hồ Anh Thái muốn cảnh tỉnh với tất cả mọi người hãy biết tránh xa và vượt lên những ham muốn thấp hèn để giữ gìn hạnh phúc và nhân cách. Có thể thấy khi miêu tả, phân tích diễn biến tâm lý, Hồ Anh Thái thường hay dồn nhân vật của mình vào một hoàn cảnh éo le, cùng quẫn, bế tắc đầy bi kịch để nhân vật suy nghĩ, hành động qua đó bộc lộ tính cách, tâm trạng. Mỗi một sự kiện kéo theo hàng loạt những suy tư, dằn vặt đau xót của nhân vật. Thể hiện diễn biến nội tâm nhân vật là một biện pháp nghệ thuật được Hồ Anh Thái sử dụng linh hoạt, phong phú và hiệu quả để tạo nên chân dung nhân vật thiên về đời sống nội tâm hơn là hành động của mình.
Tạ Duy Anh là nhà văn có nhiều sáng tạo mới mẻ, độc đáo đặc biệt là khả năng tạo dựng thành công trong hai kiểu nhân vật tim kiếm và nhân vật sám hối.
Có thể bạn quan tâm!
- Cảm hứng phê phán trong văn xuôi hiện đại Việt Nam thời kỳ đổi mới Qua các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái - 10
- Cốt Truyện Tâm Lý, Hồi Tưởng Và Ký Ức
- Hư Cấu, Tưởng Tượng - Một Thủ Pháp Nghệ Thuật Đắc Lực Trong Việc Thể Hiện Cảm Hứng Phê Phán
- Một Số Đặc Điểm Về Giọng Điệu Trần Thuật
- Cảm hứng phê phán trong văn xuôi hiện đại Việt Nam thời kỳ đổi mới Qua các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái - 15
- Cảm hứng phê phán trong văn xuôi hiện đại Việt Nam thời kỳ đổi mới Qua các tác phẩm của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái - 16
Xem toàn bộ 131 trang tài liệu này.
Hai kiểu nhân vật này đều là kiểu nhân vật nội tâm nên thủ pháp độc thoại nội tâm được tác giả tăng cường sử dụng như một thủ pháp nghệ thuật hữu hiệu để khắc họa tâm lí, tính cách nhân vật. Chúng ta thường bắt gặp những trang độc thoại nội tâm dài trong các tiểu thuyết của Tạ Duy Anh. Lão Khổ trong tiểu thuyết cùng tên đã được Tạ Duy Anh đưa vào cuộc tra tấn tinh thần mãnh liệt. Trong cuộc đời đầy biến động và chất chứa nhiều bi kịch của số phận, chưa bao giờ lão Khổ nhìn rõ mình đến thế trong sự đối diện với nội tâm. Ngồi lặng thầm và tự nhìn rõ mình, lão Khổ thấy cuộc đời của mình thật chẳng có ý nghĩa gì, cả đời lão không làm được việc gì. Lão Khổ có niềm tin ngây thơ vào cuộc sống và con người, lão yêu tha thiết cuộc sống mà lão đã dành trọn cuộc đời để cống hiến, để xây dựng, để vun đắp nhưng hiện thực lại trái với điều lão mong muốn: “Một hôm, nhân lúc uống rượu, lão Khổ bỗng phát hiện ra đa phần những việc đời lão làm đều có kết quả trái với ý định của lão” [1,7]. Trên hành trình đi tìm chân lý, lão Khổ là một kẻ cô độc, chỉ riêng mình lão chống chọi với cả một dòng họ thù địch, một làng Đồng u mê, tăm tối. Cũng có lúc lão giành được chiến thắng nhưng cũng có lúc lão gặp phải những thất bại thảm hại. Lão cô đơn. Lão là người sống bằng lí trí, lão ghét kí ức và nguyền rủa sự hồi tưởng nhưng chính cuộc đời đầy biến động của lão đẩy lão đến với những điều mà lão căm ghét. Lão Khổ sống nhờ vào quá khứ vinh quang, lão hồi tưởng lại kí ức và nhận ra sự cay đắng của lão trong hiện tại. Đó là sự khởi đầu của cuộc khủng hoảng tinh thần mà lão Khổ phải chịu đựng trong suốt cả cuộc đời.
Nét đặc biệt trong tiểu thuyết của Tạ Duy Anh là thường sử dụng độc thoại nội tâm qua những giấc mơ, những cơn ác mộng. Tác giả thường đặt nhân vật vào những cơn mê sảng khủng khiếp để chính nhân vật bộc lộ tâm lý, tính cách của mình, tự phán xét mình. Mở đầu tiểu thuyết Lão Khổ, nhân vật chính được đưa ra tòa vì tội vu khống nhưng đến cuối tác phẩm, Lão Khổ lại bị tòa án lương tâm phán xét, lão phải nhận một hình phạt khủng khiếp. Trong giấc mơ, lão dũng cảm nhìn thẳng vào lòng mình, vào những nơi u ám sâu kín nhất để tìm
ra nguyên nhân thực sự của những biến động trong cuộc đời mình. Có lẽ chỉ khi đối diện với chính mình, lão mới nhận ra được bản chất của mình, lão quá lí trí, quá nghiêm khắc và bảo thủ, cứng nhắc. Chính lão đã làm hại cuộc đời mình và làm hại những người khác để rồi sau này lão phải thành thực thú nhận mình là một tên đàn ông khốn nạn, ngu ngốc. Qua dòng độc thoại nội tâm, nhân vật lão Khổ hiện ra với cả mặt tốt và mặt xấu, cả sự mạnh mẽ và yếu đuối trong tâm hồn. Quá trình đấu tranh vật lộn để tìm ra giá trị đích thực của cuộc sống đã ngốn hết cả cuộc đời lão.
Nhân vật người mẹ trong tiểu thuyết Thiên thần sám hối của Tạ Duy Anh cũng trải qua quá trình độc thoại nội tâm dai dẳng, âm thầm. Được nghe những câu chuyện đau lòng từ những mảnh đời xung quanh, người mẹ ấy ngày càng thấm thía được nỗi day dứt đã từng chối bỏ giọt máu của mình. Đến cuối truyện, qua dòng độc thoại nội tâm, chúng ta thực sự hiểu được những diễn biến tâm lý, quá trình tự đấu tranh với bản thân để vượt lên những khó khăn của cuộc sống trong chị: “Mình không có cơ hội nào nữa - cô ta nói đúng. Chưa mất hy vọng tức là chưa mất gì cả. Chả lẽ sự sống của mình, của chồng mình lại không được tiếp tục. Không, không bao giờ mình chấp nhận sự phán quyết bất công như vậy. Phải tranh đấu đến cùng - cuộc sống không thể dừng lại. Nó phải được tiếp tục mạnh mẽ, tươi đẹp, đầy ý nghĩa, ngay cả khi mình không còn trên thế gian này. Con ơi hãy cho mẹ cơ hội để sám hối về một lần mẹ đã chối bỏ con” [3,89].
Độc thoại nội tâm được Tạ Duy Anh thể hiện như những dòng ý thức tự nhiên của nhân vật, bao hàm cả ý thức và vô thức, cả những ảo giác và huyễn tưởng đan xen, thay thế cho nhau với những mạch rẽ bất ngờ. Đó là trường hợp của Lão Khổ và Đi tìm nhân vật. Dòng độc thoại và đối thoại trong nội tâm Lão Khổ, Chu Quý, Tiến sĩ N cứ miên man, hỗn độn như sự bộn bề của cuộc sống, sự bí ẩn của tâm linh. Những giấc mơ khủng khiếp, cái ảo giác lạ tưởng, liên tưởng, những hình ảnh chồng chéo về quá khứ, về kẻ thù, những ám ảnh về “hắn” trong trong tâm trí của Chu Quý khiến anh nhiều lúc rơi vào những cơn
mê sảng, những khủng hoảng về tinh thần tưởng chừng không thể thoát ra nổi. Tất cả những mảnh vỡ ghép lại, chìm đắm trong dòng ý thức lẫn lộn giúp cho Tạ Duy Anh khắc họa một cách sâu sắc trạng thái tinh thần- sự đổ vỡ của cả một thế hệ.
Trong ba cuốn tiểu thuyết của Tạ Duy Anh thì Đi tìm nhân vật là cuốn sử dụng kĩ thuật dòng ý thức một cách điêu luyện. Chu Quý, Tiến sĩ N có những hành động mà với nhiều người đó là hành động kì quặc, khó hiểu. Chu Quý bỏ ra cả đời để làm một việc vô bổ là sưu tầm những cái chết, những cách chết, và hành động kì lạ nhất trong cuộc đời anh là giết vợ và tự sát. Tại sao Chu Quý lại bị chìm đắm trong những hoang tưởng, những ám ảnh sợ hãi về quá khứ? Tại sao Tiến sĩ N lại phải giết vợ và tự sát trong khi ông ta có đủ tất cả mọi thứ, một sự nghiệp vinh quang và một gia đình hạnh phúc? Cuốn tiểu thuyết gây cho ta sự ám ảnh bởi những câu hỏi tại sao và dường như cũng bị ám ảnh về một hắn nào đó đang tồn tại ngay trước mắt mình, buộc chúng ta phải sống và đấu tranh với chính bản thân để tồn tại như một con người đích thực. Có lẽ đó chính là điều mà Tạ Duy Anh mong muốn ở độc giả khi đọc tác phẩm này nói riêng và các tác phẩm khác của anh nói chung.
* Sự ám ảnh của thế giới tâm linh
Tâm linh là vấn đề trở đi trở lại nhiều lần trong sáng tác của Ma Văn Kháng, Tạ Duy Anh, Hồ Anh Thái, góp phần quan trọng trong việc phản ánh tâm lý nhân vật. Trong sáng tác của các nhà văn, thế giới tâm linh được khám phá với những tầng bậc, góc độ khác nhau. Những giấc chiêm bao mộng mị, sự sống dậy của ký ức, những rắc rối u uẩn trong tâm lí, những khoảnh khắc thần giao cách cảm giữa những người sống với người chết, giữa người này với người kia được nhà văn tái hiện rất sống động.
Trong sáng tác của Ma Văn Kháng, nhân vật sống mãnh liệt với nội tâm xuất hiện khá nhiều. Bà nội cu Duy trong Côi cút giữa cảnh đời sống trong cảnh nghèo khổ điêu đứng, những lúc gặp cơn bĩ cực, bà thường thắp hương khấn chồng, điều này giúp cho bà có thêm sức mạnh, niềm tin để hoàn thành trách