cư dân – điều mà trên nhiều phương diện sẽ rất có ý nghĩa khi muốn tìm hiểu các giá trị văn hóa – văn học của vùng đất.
Đại Nam thực lục tiền biên ghi: “Mậu Ngọ (1558), mùa đông, tháng 10, chúa bắt đầu vào trấn Thuận Hóa, 34 tuổi. Những người bộ khúc đồng hương ở Tống Sơn và những người nghĩa dũng xứ Thanh Hoa đều vui lòng theo đi” [115, tr. 31]. Nam triều công nghiệp diễn chí viết: “Đoan quốc công cùng với các công tử thái bảo Hòa quận công, Thụy quận công và các tướng Văn Nham, Thạch Xuyên, Tiền Trung, Tường Lộc ngay ngày hôm ấy đem một nghìn quân thủy ra cửa biển nhằm theo hướng hai xứ Thuận, Quảng mà tiến” [16, tr. 28]. Qua đó cho thấy, cuộc di cư vào Thuận Hóa năm 1558 đã diễn ra với quy mô lớn về người. Đáng chú ý, thành phần tham gia vào dòng di cư này đa phần là dân võ biền. Đây là một đặc điểm hết sức nổi bật. Chính thế bất ổn của Đàng Trong khi ở vào vị trí mà các cuộc tranh chấp đất đai giữa người Việt và Chiêm cho đến cuối thế kỷ XVI vẫn chưa ngã ngũ đã quy định cho sự định cư của giới võ biền trên mảnh đất này. Ngay cả sau này, chính quyền Đàng Trong luôn có xu hướng được tổ chức như một chế độ quân sự do vừa phải đối mặt với người Chiêm Thành ở phía Nam, vừa chịu sự tấn công của họ Trịnh ở phía Bắc. Đây tuy không phải là thành phần cư dân duy nhất nhưng lại có ảnh hưởng khá cốt lõi.
Đối tượng khác trong thành phần cư dân của Đàng Trong chính là những tầng lớp dân cư thuộc hạng bần cùng trong xã hội. Không nói đến những cuộc di cư lẻ tẻ có lẽ đã diễn ra dưới bất kỳ triều đại nào, thì chiếu di dân năm 1075 dưới thời Lý được xem là văn bản chính thức đầu tiên của nhà nước phong kiến kêu gọi người Việt đi lập nghiệp trên vùng đất mới. Sau này, cùng với những cuộc mở rộng địa giới, người Việt tiếp tục như dòng chảy đều đặn ngấm về phương Nam. Tuy nhiên, cần phải nhấn mạnh rằng, phần đa trong số đó là những người nghèo khổ, vì không thành trong cuộc mưu sinh trên vùng đất cũ mà chấp nhận rời xa quê hương bản quán với hy vọng đánh đổi cuộc đời khốn khó ấy thành cuộc sống tốt đẹp hơn trên vùng đất mới. Chính những đặc điểm này trong tính chất và thành phần của cư dân Đàng Trong sẽ tạo ra những ảnh hưởng trực tiếp tới quá trình phát triển kinh tế và văn hóa xã hội của Đàng Trong sau này. Chắc chắn, trừ những người đi do nhiệm vụ công việc được giao, những người mang khát vọng mưu sinh trên miền đất mới, thì vào Thuận Quảng không phải là lựa chọn dễ dàng đối với phần đa cư dân. Thậm
chí, một bộ phận không nhỏ là những tội đồ bị lưu đày theo hình luật của triều đình. Chính thành phần cư dân đặc biệt như thế sẽ “quyết định sự phát khởi, trưởng thành của văn nghệ miền Trong theo đường lối riêng của nó” [180, tr. 548]. Vì rằng, những cư dân lao động nghèo khổ, lính tráng, tội đồ hay dân anh chị… (những thành phần chính của cơ cấu dân cư Đàng Trong) có thể có “óc phiêu lưu”, “thường ít học song lại có khiếu về ca hát” [180, tr. 547]. Chắc hẳn trên bước đường khai cơ lập nghiệp, cùng với cái cuốc, cái cày, họ cũng mang theo một tâm hồn văn nghệ và truyền thống văn nghệ của mảnh đất chôn nhau cắt rốn. Những câu hát trống quân, lời quan họ, các làn điệu dân ca, ví phường vải, hát dặm, hò vè... theo bước chân lưu dân tiến dần vào phương Nam, rồi cùng với thời gian biến tấu, chuyển đổi cho phù hợp với sinh khí văn nghệ địa phương, hòa đồng thêm nhiều yếu tố thổ ngơi của người Chiêm Thành, Miên, Thượng và sau này là cả người Trung Hoa… làm cho sinh hoạt văn nghệ nơi đây thêm phần đa dạng. Chính lớp người này sẽ quyết định sự phát khởi, trưởng thành của văn nghệ Đàng Trong theo đường lối riêng, không còn giống với phương thức phát triển từ đây của Đàng Ngoài. Bởi họ, chứ không phải tầng lớp nho sinh (những trí thức được đào tạo bài bản) mới là đối tượng chính tiếp nhận và lưu truyền các sản phẩm văn chương.
Hành trình tiến về phương Nam là một chuỗi dài các hoạt động: vỡ đất, đuổi sấu, bắt thuồng luồng, chiến đấu với kẻ thù, với thiên nhiên hung dữ… Cuộc sống của con người vì thế mà thường thiên về hành động hơn là suy tư. Nền văn nghệ phục vụ đối tượng vốn không cần đọc, không cần ngẫm nghĩ bằng xem, nghe, xúc động, cười cợt, hoa chân múa tay như vậy, chắc chắn cũng trở nên khác biệt. Những bộ môn trình diễn, những bài thơ, vè, truyện kể, ca hát, ca kịch… vui ra vui, buồn ra buồn, trở nên có sức hấp dẫn và sức sống đặc biệt. Từ “ngã rẽ Nguyễn Hoàng”, văn chương Đàng Trong đã gần như có hẳn những phương pháp, những quy luật, một cá tính tách biệt hẳn sự phát triển của văn chương Đàng Ngoài. Trong khi văn chương Đàng Ngoài tách thành hai đường phát triển song hành: văn chương bác học và bình dân, trong đó văn chương bác học luôn lấy đối tượng trí thức làm căn bản, thì văn chương Đàng Trong bao giờ cũng cố gắng bình dân hóa, và đối tượng là quần chúng lao động. Đó là lý do mà văn nghệ miền Nam căn bản là nói và trình diễn, như nhận định có tính thuyết phục cao của nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Xuân.
2.3. Xã hội thị dân: tiền đề cho sức trẻ của văn học Đàng Trong
Có thể nói, xu hướng vượt thoát ra khỏi xã hội nông nghiệp - nông thôn - nông dân để hướng đến xã hội thương nghiệp - đô thị - thị dân là một động thái xã hội quan trọng có tác động rất mạnh tới văn học Đàng Trong mà kết quả trực tiếp là sự ra đời sớm của loại truyện Nôm bác học đậm sắc thái dục tình. Trong khi Đàng Ngoài vẫn phát triển nền kinh tế tiểu nông tự cung tự cấp lâu đời - một trong những nguyên nhân hình thành lối tư duy khép kín, giáo điều, ít cởi mở, thì Thuận - Quảng thế kỷ XVI rồi Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII lại có một nền sản xuất vật chất khá cởi mở. Theo ghi chép của Lê Quý Đôn, từ năm 1572, sau khi Nguyễn Hoàng giết chết được tướng Mạc là Lập Bạo, giữ được sự ổn định chính trị ở Thuận Quảng thì dần dà nhưng nhanh chóng và liên tục, thuyền buôn ngoại quốc đều đến mua bán, đổi chác phải giá. Qua thế kỷ XVII, Hội An không còn đơn thuần là một thương cảng xuất nhập khẩu nữa mà đã trở thành điểm giao dịch của thương nhân nước ngoài và nơi quá cảnh của hàng hóa ngoại quốc. Đặc biệt, với việc tiếp nhận các di thần phản Thanh phục Minh gốc Hoa Nam từ cuối thế kỷ XVII tới tỵ nạn chính trị, những người Việt trên con đường tiến vào phương Nam đã có thêm trợ thủ đắc lực là người Hoa với truyền thống hải hành và kinh nghiệm buôn bán lâu đời. Từ nhóm Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch vào Biên Hòa, Mỹ Tho vỡ đất hoang, lập phố xá, thu hút đông đảo thương nhân Trung Hoa, Nhật Bản, Đông Nam Á và phương Tây tới buôn bán ở Biên Hòa, Mỹ Tho năm 1679 đến nhóm Mạc Cửu vào khai phá khu vực Hà Tiên, “dựa vào núi chạy theo bờ biển, có thể tụ họp buôn bán làm giàu” rồi đem đất này về quy phục chúa Nguyễn năm 1708, những người Hoa phản Thanh phục Minh tới Đàng Trong tỵ nạn chính trị thế kỷ XVII – XVIII đã nhanh chóng phát huy được sở trường kinh tế của mình trên vùng đất giàu tiềm năng này, góp phần quan trọng vào việc lập nên ba đỉnh Biên Hòa, Mỹ Tho, Hà Tiên của tam giác Việt Nam trên đồng bằng Nam Bộ. Mặt khác, một cách logic, chính sách thương nghiệp cởi mở của các chúa Nguyễn đã kích thích sự phát triển của kinh tế thương nghiệp, mà đặc biệt là ngoại thương ở Đàng Trong. Trước năm 1778, ngoài thương cảng Hội An, hệ thống hoạt động thương nghiệp của người Hoa ở Gia Định cũng phát triển khá nhanh về số lượng và phạm vi. Từ đầu thế kỷ XVIII, trấn Hà Tiên đã nổi tiếng trong thư tịch Trung Hoa với danh xưng “Cảng khẩu quốc”; còn Cù Lao Phố, Sài Gòn cũng đã trở thành những trung tâm thương nghiệp lớn, thu hút nhiều thương nhân nước ngoài,
trong đó có một số lớn tới từ Trung Hoa… Hệ quả là cuối thế kỷ XVIII, xuất hiện nhiều tác giả - nhà nho xuất thân từ gia đình thương nhân như Ngô Nhơn Tịnh, Trịnh Hoài Đức, Huỳnh Ngọc Uẩn… Hoạt động thương nghiệp trở thành một bộ phận gắn bó với sự nghiệp xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, tổ chức xã hội và bảo vệ tổ quốc của người dân trên nửa phần đất phía Nam đất nước, và trên đường hướng này cũng tác động mạnh mẽ tới cơ cấu xã hội ở địa phương. Nhiều đặc điểm thương nghiệp Trung Hoa đã được du nhập vào, đồng thời được cấu trúc lại trong bối cảnh Đàng Trong Việt Nam. Sinh hoạt thương nghiệp được phản ánh khá rõ nét trong văn học. Điển hình như trường hợp Hiển tông Phước Châu, khi rung cảm trước cảnh chợ chiều ở Thuận Hóa, đã bộc lộ niềm tự hào khi nhất hóa chính sách tài chính vào với công nghiệp giáo hóa của chính quyền Đàng Trong: “Tiền đồng đổi chác tiện dân chúng/ Rượu trắng làm quen chuốc khách nhân/ Buôn bán há không cân với đấu/ Còn theo phong tục thuở xưa thuần” (Thuận Hóa vãn thị) [142, tr. 315]. Bến đò Hà Nhai trong con mắt Tuần phủ Quảng Ngãi Nguyễn Cư Trinh chủ yếu là nơi qua lại của người buôn bán: “Bữa bữa lâu đài chuông giục tối/ Chiều chiều thương mại khách đi qua” (Hà Nhai vãn độ) [142, tr. 315]… Có thể nói, phần đông các tác giả văn học Đàng Trong từ năm 1773 trở đi ngày càng hòa nhập một cách tự nhiên vào xã hội thị dân, một sản phẩm của kinh tế thương nghiệp tiền tư bản ở Đàng Trong buổi ấy.
Cùng với sự phát triển của hoạt động thương nghiệp, các đô thị lớn cũng hình thành, không chỉ là nơi giao thương mà còn là nơi lui tới của khách thập phương, trong đó đáng chú ý là con em của các bậc thế gia, các công tử - tiểu thư tìm nơi giải trí, thoát ra khỏi sự ràng buộc nghiêm ngặt và buồn tẻ của đời sống gia đình Nho phong. Đó cũng là nơi lui tới của các tao nhân mặc khách, có nhu cầu giao kết, nhu cầu tìm bạn, nhu cầu thể hiện mình trong quan hệ với những người “tri kỷ, tri âm”… Tuy không nhiều, nhưng cũng đủ để hình thành nên một xã hội thị dân, một môi trường kinh tế - văn hóa phi cổ truyền. Chính môi trường văn hóa đô thị ấy đã trở thành mảnh đất màu mỡ để những điều mới lạ được dịp nảy sinh; điển hình là “các loại hình tình cảm cá nhân dần dà tìm ra nơi thể hiện, những quan hệ phi chính thống từ âm mưu chính trị, phi vụ làm ăn đến các cuộc tình vụng trộm được tổ chức tiến hành” [185, tr. 69]. Và rõ ràng, cùng với sự xuất hiện của những tư tưởng mới, nhu cầu tâm lý mới, trong thời đại mới, ở hoàn cảnh và một vùng đất hoàn toàn mới, thị hiếu thẩm mỹ, mà cụ thể là nhu cầu thưởng thức văn chương của một bộ phận người
cũng thay đổi. Văn chương, theo đó cũng phải hướng đến những động thái tâm hồn của con người, thỏa mãn những trạng huống cá nhân. Mặt khác, dù rằng ở Đàng Trong lúc này chưa phải là thời điểm loại hình nhà nho tài tử - những tác giả xuất chúng làm nên sức sống của thể tài truyện Nôm tài tử giai nhân - xuất hiện rầm rộ, nhưng những sắc thái tư tưởng, tình cảm “phi cổ truyền” đã manh nha trong tâm thức của không ít nhà nho hiện thời. Sự “giải phóng” về mặt tư tưởng Nho gia kết hợp với không khí thị dân phóng khoáng của thời đại đã đem lại cơ hội phát triển và sức sống cho loại truyện tình yêu (thậm chí tình dục). Điều này lý giải vì sao Nguyễn Hữu Hào – tác giả của Song Tinh Bất Dạ, truyện Nôm bác học đầu tiên và gần như là “hy hữu” của văn học viết trung đại Việt Nam trong việc miêu tả một cách táo bạo và sống động chuyện phòng the - tuy chưa hội tụ đầy đủ những tố chất của một nhà nho tài tử song truyện Nôm của ông vẫn mang những nét đẹp, những đặc điểm, thậm chí là sự trội vượt về mặt khắc họa tính cách, tình cảm của nhân vật, đặc biệt là sự phong phú, táo bạo của yếu tố sắc dục so với những truyện Nôm tài tử - giai nhân sau này.
Có thể bạn quan tâm!
- Văn Học Đàng Trong Như Một Đối Tượng Khảo Sát Chuyên Biệt
- Nho Học Vùng Đất Mới Và Những Dấu Tích Văn Chương
- Học Phong Không Chuộng Từ Chương Cử Nghiệp: Điều Kiện Để Văn Học Nôm Phát Triển
- Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả - Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim - 8
- Tương Quan Với Văn Học Đàng Ngoài: Nhìn Từ Phương Diện Đội Ngũ Tác Giả
- Tương Quan Với Văn Học Đàng Ngoài: Nhìn Từ Phương Diện Nội Dung Phản Ánh
Xem toàn bộ 166 trang tài liệu này.
Theo Cao Tự Thanh, còn có thể nhìn thấy tác động của kinh tế thương nghiệp tới văn học Đàng Trong trên nhiều khía cạnh khác, chẳng hạn sự giao lưu mạnh mẽ giữa Đàng Trong với Hoa Nam đã góp phần dẫn tới việc hình thành Tao đàn Chiêu Anh các, trong đó phần lớn thành viên là người Trung Hoa. Hay tuy hiện không thể tìm hiểu sự phổ biến của các tác phẩm văn chương ở Đàng Trong đương thời một cách hệ thống, nhưng những tư liệu còn lại đến nay cũng cho phép khẳng định rằng phần đông các tác giả Đàng Trong đều có ý thức tuyên truyền, phổ biến tác phẩm của mình. Năm 1714, Kính phi họ Nguyễn chết, Hiển tông Nguyễn Phước Châu đã làm bốn bài thơ điệu vong viết trên vách đàn chay ở chùa Thiên Mụ, và về sự kiện khóc vợ công khai mà so với quan điểm chính thống là “rất ít tự trọng thân phận quân vương” này, ngay các sử thần Quốc sử quán nhà Nguyễn về sau cũng tán dương trong Đại Nam liệt truyện tiền biên: “Người ta tranh nhau truyền tụng thơ của chúa, coi như một việc hay lạ ít có” [114, tr. 78]. Năm 1776, Lê Quý Đôn, Phạm Nguyễn Du vào Thuận Hóa đã đọc được không những Đạm Am tập của Nguyễn Cư Trinh, Chiến cổ Đường thi tập của Phạm Lam Anh, Phong trúc tập của Ngô Thế Lân mà còn tìm được bản in Thụ Đức hiên tứ cảnh, Hà Tiên thập vịnh, Minh bột di ngư của Mạc Thiên Tích và tao đàn Chiêu Anh các…, cũng đủ cho
người ta một ý niệm về tình hình in ấn, phổ biến văn chương ở Đàng Trong đương thời. Đặc biệt, một số tác phẩm của Hiển tông Phước Châu còn lại được đến nay không phải trên sách vở thông thường, mà trên những tô đĩa bằng sứ trong dòng đồ gốm sứ Việt Nam đặt làm ở Trung Hoa, cũng là nét đáng chú ý trong hoạt động phổ biến và thưởng thức văn chương của người Việt thế kỷ XVIII ở Đàng Trong.
Tiểu kết:
Từ những phân tích trên, một lần nữa có thể khẳng định, văn học Đàng Trong đã phản ánh tương đối đầy đủ những động thái văn hóa đặc thù của vùng khi đó. Khác với xã hội Đàng Ngoài có một nền Nho học truyền thống lâu đời, Đàng Trong phát triển một mô hình Nho giáo không thuần nhất, ở đó yếu tố đại chúng hóa lấn át yếu tố quan phương, tính phóng khoáng “nho mà không nho, không nho mà nho” trở nên phổ dụng, đã tác động đến đội ngũ tác giả, đặc biệt là về quan niệm sáng tác, phương thức lựa chọn chủ đề - đề tài, hình tượng trung tâm, thể loại, ngôn ngữ…, thúc đẩy văn chương phát triển theo xu thế tự nhiên, thuần phác. Việc không chuộng lối học từ chương cử nghiệp, tuy khiến xã hội Đàng Trong cả một thời gian dài không có các bậc đại khoa, nhưng lại mở đường cho văn quốc âm Đàng Trong phát triển, trên đường hướng thống nhất với văn mạch dân tộc, vì suy cho cùng, lực lượng sáng tác của Đàng Trong vẫn căn bản cùng một mục tiêu học nghiệp và truyền thống học phong với trí thức Đàng Ngoài. Mặt khác, sự đặc biệt về thành phần cư dân với lực lượng căn bản là những người lưu dân, binh sĩ, tội đồ… đã tạo nên một không gian sinh hoạt văn hóa – văn nghệ đặc biệt cho Đàng Trong, với sự phát triển trội vượt của những sáng tác bình dân thiên về nói và trình diễn. Dù rằng xã hội Đàng Ngoài khi đó cũng đã có nền ngoại thương tương đối phát triển, nhưng sự trì kéo của truyền thống với lối sống khép kín tự ngàn đời đã khiến dù là hoạt động kinh tế thương nghiệp hay không gian văn hóa đô thị, đều không thể tạo nên sức sống ấn tượng như ở vùng đất mới Đàng Trong. Chính xã hội thị dân với các nhu cầu và năng lực của nó đã làm nên sự tươi mới và sức trẻ cho văn học Đàng Trong khi đó.
Chương 3
Văn học Đàng Trong xét trong mối tương quan với văn học Đàng Ngoài thế kỷ XVII - XVIII
Trong thế giới khách quan, không có sự vật nào lại tồn tại biệt lập mà không có liên hệ với bất kỳ sự vật nào khác. Do vậy, muốn hiểu về bản chất của một sự vật, không chỉ tìm hiểu duy nhất bản thân sự vật đó, mà còn cần đặt nó trong mối quan hệ với các sự vật khác để quan sát và đánh giá.
Trên quỹ đạo tồn tại và vận động của lịch sử văn học, không có một vùng văn học, một thời đoạn văn học nào lại tồn tại biệt lập và “cô độc”. Trong quá trình tạo sinh và phát triển của một vùng văn học bất kỳ, sẽ có những mối quan hệ tương tác với các vùng văn học xung quanh nó – chí ít là những vùng văn học tiệm cận về không gian và thời gian. Theo đó, đặt một vùng văn học này trong mối liên hệ với một vùng văn học khác gần gũi với nó về không gian, tương đẳng với nó về thời gian, cùng có nhiều điểm chung về nguồn gốc, bối cảnh, lịch sử, thành phần, cùng chung một số hệ giá trị cơ bản... sẽ là một trong những cách hữu hiệu để hiểu sâu sắc hơn về đặc trưng, giá trị của vùng văn học đó.
Văn học Đàng Trong tồn tại trong một không gian và thời gian xác định: ở phương Nam nước Việt, vào khoảng thế kỷ XVII - XVIII. Song hành với nó, cùng thời điểm ấy, còn có vùng văn học Đàng Ngoài ở phía Bắc sông Gianh. Điểm chung của hai vùng văn học ấy là cùng chung một cội nguồn văn học Việt - hẳn nhiên sẽ hứa hẹn nhiều đặc điểm tương đồng. Điểm khác là: trong khi vùng văn học Đàng Trong, căn bản mới chỉ “thành hình” và bước đầu để lại dấu ấn từ sau khi Nguyễn Hoàng chính thức rạch đôi sơn hà (về mặt chính trị) và Đào Duy Từ đặt nền móng “khai sơn phá thạch” (về sáng tác văn chương nghệ thuật), khoảng cuối thế kỷ XVI
- đầu thế kỷ XVII, thì vùng văn học Đàng Ngoài đã có mấy trăm năm kinh nghiệm trưởng thành. Chưa kể, hai vùng văn học, tạo sinh ở hai không gian văn hóa, tồn tại dưới hai thể chế chính trị - quyền lực khác nhau... có lẽ, sẽ khó tránh khỏi khác biệt. Thực tế đó gợi mở: có thể, đặt văn học Đàng Trong vào mối tương quan với văn học Đàng Ngoài sẽ giúp hiểu hơn về bản chất và bản sắc của văn học vùng. Từ đó, có thể nhìn nhận: có hay không sự thống nhất của văn học hai Đàng? Có hay không
sự dị biệt giữa hai nền văn học cũ - mới? Nếu dị biệt, thì có dẫn đến đối kháng, hay ngược lại, làm phong phú thêm cho nền văn học dân tộc?
Trước khi trả lời cho những câu hỏi đó, thiết tưởng nên nhìn lại lịch trình văn học Đàng Trong một thuở.
3.1. Lược thảo tiến trình văn học Đàng Trong
Văn học Đàng Trong, theo chúng tôi có thể chia thành ba thời kỳ chủ yếu: thời kỳ đầu từ sau khi Nguyễn Hoàng trở về Thuận Quảng năm 1600 đến trận đánh cuối cùng giữa hai phe Trịnh – Nguyễn năm 1672; thời kỳ thứ hai từ năm 1673 đến năm 1777, tức năm Định vương Nguyễn Phước Thuần và Tân Chính vương Nguyễn Phước Dương bị Tây Sơn bắt giết ở Gia Định; và thời kỳ thứ ba: từ năm 1778, sau khi Nguyễn Ánh được các lực lượng chống Tây Sơn ở Nam Bộ tôn là Đại Nguyên soái Nhiếp quốc chính đến năm 1802. Thực ra, những mốc thời gian này chỉ có giá trị tương đối, và mặc dù đều gắn với một sự kiện chính trị quan trọng, nhưng chúng tôi xét thấy với Đàng Trong, việc dựa theo những dấu mốc lịch sử để xác định thời đoạn văn học là có tính khả thi, bởi đó là những dấu mốc quan trọng, khởi đầu cho những tiến trình văn hóa mới của Đại Việt ở Đàng Trong, với những cơ chế vận động đặc thù tác động tới văn học viết.
3.1.1. Từ đầu thế kỷ XVII đến năm 1672
Quan sát tiến trình văn học Đàng Trong thế kỷ XVII - XVIII, có thể thấy, từ đầu thế kỷ cho đến năm 1672 - năm diễn ra trận đánh thảm khốc ở lũy Trấn Ninh, khởi đầu cho thời kỳ hưu chiến kéo dài của quân lực hai Đàng, lực lượng tác giả văn học Đàng Trong căn bản vẫn còn ít và thuần nhất. Đa phần họ đều là những trí thức - nhà nho có nguồn gốc xuất thân và sinh trưởng ở Bắc Hà, nhưng lựa chọn con đường vào Nam phụng sự chính quyền chúa Nguyễn, tiêu biểu như: Đào Duy Từ (1572 - 1634, Thanh Hóa), Nguyễn Hữu Dật (1604 - 1681, Thanh Hóa). Nếu như việc sinh trưởng ở đất Bắc hứa hẹn hun đúc cho các tác giả vốn văn hóa - văn học truyền thống, đặc điểm sẽ làm nên những ưu thế nổi trội trong các sáng tác thành danh ở thời kỳ đầu của văn học Đàng Trong so với giai đoạn trước đó (nhìn từ phía tác động khách quan), thì sự lựa chọn con đường khuông phò họ Nguyễn lại hoàn toàn mang tính chất chủ quan. Sự lựa chọn ấy, không đơn thuần chỉ do hoàn cảnh xô đẩy (như Đào Duy Từ vì không được đại dụng ở Đàng Ngoài bởi xuất thân con nhà ca xướng hèn kém) mà còn là kết quả của một tiến trình suy ngẫm và định