Tương Quan Với Văn Học Đàng Ngoài: Nhìn Từ Phương Diện Nội Dung Phản Ánh

hương thuộc thời kỳ văn học Đàng Trong như Mạc Thiên Tích và nhiều tác giả trong thi phái Chiêu Anh các, hoặc những người dù sáng tác chủ yếu dưới thời kỳ nhà Nguyễn nhưng sinh ra, lớn lên, học tập, trưởng thành và hình thành thế giới quan, nhân sinh quan từ thời kỳ Đàng Trong như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh.

Mạc Thiên Tích (1706 - 1780), lúc đầu là Thiên Tứ, tiểu danh là Tông, tự Sĩ Lân, con trưởng của Tổng binh Hà Tiên Mạc Cửu. Sau khi cha chết, Thiên Tích được tập tước, giữ chức Đô đốc trấn thủ Hà Tiên, quyền hạn rộng rãi. Ông không chỉ có công đầu trong việc khai sơn phá thạch, đuổi sấu, bắt thuồng luồng, mà còn biến vùng đất cô tịch này thành một danh thắng không những trong thực tế mà cả trong lĩnh vực văn học, nghệ thuật với danh xưng được sử sách tôn vinh là “văn hiến quốc”. Là một nhà chính trị đa tài, lại là một văn sĩ nổi tiếng, Mạc Thiên Tích đã gọi mời kẻ sĩ bốn phương, mở Chiêu Anh các (1736), trước hết để đàm văn luận võ. Sau nữa, Chiêu Anh các còn lập Văn miếu thờ Khổng tử; dựng nhà nghĩa học, truyền thụ lễ nghĩa thi thư cho những thanh niên tuấn tú cùng học trò nghèo khó khắp vùng. Do vậy, Chiêu Anh các không chỉ đơn thuần là một tao đàn thi xã mà còn là một tổ chức hoạt động văn hóa xã hội góp phần vào sự phát triển, canh tân văn hóa của xứ sở Hà Tiên.

Riêng trong lĩnh vực sáng tác văn chương, theo các tư liệu hiện còn, được biết, Chiêu Anh các đã có ít nhất bảy tác phẩm khắc in. Trong bài tựa sách Minh Bột di ngư trùng bản (khắc in năm 1821), Trịnh Hoài Đức kể ra: Hà Tiên thập cảnh toàn tập, Minh Bột di ngư thi thảo, Hà Tiên vịnh vật thi tuyển, Châu thị trinh liệt tặng ngôn, Thi truyện tặng Lưu tiết phụ, Thi thảo cách ngôn vị tập [192, tr. 9]. Sách Kiến văn tiểu lục của Lê Quý Đôn, ngoài Hà Tiên thập vịnh còn nhắc tới bản in Thụ

Đức hiên tứ cảnh [37, tr. 237]. Trong đó Hà Tiên thập cảnh toàn tập (tức Hà Tiên thập vịnh bằng chữ Hán), có 320 bài thơ Đường luật của 32 người1; Minh Bột di ngư của Mạc Thiên Tích có 30 bài thơ và 01 bài phú; Thụ Đức hiên tứ cảnh có 88 bài thơ Đường luật hồi văn thuận nghịch độc của 32 người… [142, tr. 302].

Điều đáng nói là trong số “tam thập lục kiệt”2 của tao đàn, chỉ có 6 vị là người Việt, còn 30 vị nữa là người Minh hương - có thể là người Hoa sinh ra tại


1 Chưa kể 10 bài họa lại của Nguyễn Cư Trinh vào năm 1757, được Lê Quý Đôn chép trong sách Phủ biên tạp lục; và 10 bài của Dư Tích Thuần mang đầy khẩu khí “thiên triều” nên không được Mạc Thiên Tích cho in.

2 Theo Đông Hồ, không thể căn cứ vào số lượng 31 người họa lại 10 bài vịnh Hà Tiên của người thủ xướng Mạc Thiên Tích mà nhầm lẫn Chiêu Anh Các có 31 người. Thực ra, còn 5 vị nữa có đăng tên trong danh sách Chiêu Anh các mà

nước Việt (có người ở Hà Tiên, có người từ Thuận Quảng, Gia Định), hoặc người Trung Hoa từ chính quốc sang (chủ yếu là hai tỉnh Quảng Đông, Phúc Kiến), vì hâm mộ thanh danh Chiêu Anh các, cảm mến phong lưu tài vận đất Hà Tiên mà tìm đến. Mặc dù khai sinh tại xứ sở Đàng Trong, nhưng nói như Đông Hồ thì “trong Chiêu Anh các người Tàu là chủ mà người Việt là khách” [60, tr. 49]. Dù được hình

thành tương đối ngẫu nhiên về lực lượng sáng tác nhưng “đây vẫn là một bộ phận trong văn học Hán Nôm Việt Nam” [142, tr. 304]1. Trên thực tế, các yếu tố nghệ thuật Hoa Nam đã được tiếp thu một cách chủ động và có ý thức để tuyên truyền

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 166 trang tài liệu này.

cho một Hà Tiên ở tây thùy viễn tái, một Hà Tiên dù cách bức về không gian - địa lý nhưng vẫn là một phần lãnh thổ của Việt Nam. Nếu như Hà Tiên thập vịnh “phản ánh văn chương về chặng đầu trong quá trình Việt hóa về mặt chính trị của con cháu các di thần phản Thanh phục Minh người Hoa ở Đàng Trong thế kỷ XVIII” [142, tr. 304] thì Minh Bột di ngư là một “tuyên ngôn Việt hóa” của Mạc Thiên Tích và lớp hậu duệ các di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam qua tỵ nạn chính trị ở Đàng Trong thế kỷ XVII – XVIII, khi mối quan hệ với không gian xã hội này đã thúc đẩy họ “chủ động và vĩnh viễn vùi chôn „tâm sự di thần‟” [142, tr. 305]. Tới đây, văn học Đàng Trong đã tiếp nhận thêm một nguồn lực quan trọng, giúp nó vừa duy trì được mối liên hệ với văn học viết truyền thống vừa tiếp thu thêm nhiều yếu tố “quốc tế” trong hoàn cảnh khu vực lúc ấy. Hết sức đặc biệt là, Chiêu Anh các không chỉ có sức ảnh hưởng trong sinh hoạt văn học Đàng Trong và trong một bộ phận văn nhân Trung Hoa - những người có ít nhiều liên hệ với nhau về vốn văn hóa, tri thức… mà còn được rất nhiều nhà nho Đàng Ngoài tán thưởng, dù về mặt quan điểm chính trị, họ đứng ở “hai đầu chiến tuyến”, như: Lê Quý Đôn, Phạm Nguyễn Du (thế kỷ XVIII), Phan Huy Chú, Nguyễn Trọng Hợp (thế kỷ XIX)… Để có được sức ảnh hưởng đó, chắc hẳn sáng tác của tao đàn này phải có một “điểm gặp gỡ” nào đó với tâm thế sáng tác và thưởng ngoạn văn chương của các thi nhân Đàng Ngoài; nói cách khác, lúc này, văn chương Đàng Trong nói chung và thi phẩm của Chiêu Anh các nói riêng, chắc chắn phải có những yếu tố vượt qua tính chất “địa phương” của một vùng văn học và hòa vào mệnh mạch chung của văn học


Cái tôi trữ tình trong thơ nữ trẻ sau 1986 qua các tác giả - Vi Thùy Linh, Ly Hoàng Ly, Bùi Sim Sim - 10

không thấy thơ họa [xem thêm: Đông Hồ (1970), Văn học miền Nam, Văn học Hà Tiên, Chiêu Anh các – Hà Tiên thập cảnh khúc vịnh, Xuất bản Quình Lâm, Viện Văn nghệ - Hiên Biên khảo, Sài Gòn, tr. 58].

1 Về việc sáng tác của Chiêu Anh các có được coi là văn học Việt hay không, xem thêm mục 4.1.2: “Mạc Thiên Tích, Chiêu Anh các và trung tâm văn học Hà Tiên”.

dân tộc, làm phong phú cho văn học dân tộc, thậm chí có những thành tựu tác động dội ngược lại văn học truyền thống.

Ngoài Mạc Thiên Tích và nhóm Chiêu Anh các ở Hà Tiên, trong các nhóm người Hoa ở Đàng Trong trước năm 1755 cũng có những tác giả như Trần Thoại (mà theo Cao Tự Thanh, nhiều khả năng chính là Trần Đại Định – con Trần Thượng Xuyên) với một số bài thơ được Phạm Nguyễn Du trích trong Nam hành ký đắc tập. Nhân vật này tuy là Tổng binh, nhưng lại có phong cách rất tao nhân, và qua lời thơ trong Tự vấn, Tân trúc điếu đài, Túy khách ngâm, cũng có thể ít nhiều thấy được đời sống tâm tình của một số tướng lĩnh quý tộc kiêm thương nhân địa chủ người Hoa ở vùng Lục Châu trước khi Tây Sơn khởi nghĩa: tâm lý tự hào và thỏa mãn của những người khẳng định được vai trò xã hội của mình trong một không gian sống mới, một không gian xã hội không chỉ giới hạn trong quan hệ giữa những người Hoa.

Sau khi Tây Sơn khởi nghĩa (1771) và xác lập vương triều vào năm 1778, đồng thời quân Lê - Trịnh do Hoàng Ngũ Phúc chỉ huy vượt sông Gianh, chiếm Phú Xuân (1774 - 1775), đánh đuổi tập đoàn chúa Nguyễn vào Gia Định, nhiều quan lại, tướng lĩnh và quân sĩ người Thuận Quảng đã chạy theo chúa Nguyễn Phước Thuần vào Nam. Cùng với đó, một số nhà nho, nhân dân tránh chiến tranh ở miền Trung cũng tìm vào sống ở khu vực Đồng Nai – Gia Định, vô hình trung góp phần vào sự phát triển văn hóa của địa phương. Tuy nhiên, cũng phải đến khi “Sơn hội Gia Định” được thành lập với các nhà thơ Chỉ Sơn Trịnh Hoài Đức, Nhữ Sơn Ngô Nhơn Tịnh, Kỳ Sơn Diệp Minh Phụng, Phục Sơn Vương Kế Sinh, Hối Sơn Huỳnh Ngọc Uẩn… vào đầu những năm 80 của thế kỷ XVIII, lực lượng trí thức ở địa phương mới chính thức tách ra như một tầng lớp riêng biệt với những sinh hoạt văn hóa – xã hội độc lập. Từ thời điểm này, văn học Hán Nôm ở Gia Định mới thực sự ra đời, với một lực lượng sáng tác - tầng lớp trí thức có khả năng cũng như nhu cầu sáng tác văn học viết. Nổi bật trong số đó là ba tên tuổi: Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Lê Quang Định, được người đời tôn xưng là “Gia Định tam gia” – ba văn nhân không chỉ sinh trưởng, thành danh ở Gia Định, mà còn là những người viết nhiều nhất về Gia Định, tái hiện, làm sống dậy tất cả hồn cốt, sinh khí của đất Gia Định. Cùng với những văn nhân khác như Huỳnh Ngọc Uẩn, Võ Trường Toản… sáng tác của Gia Định tam gia đã góp phần vào việc đưa văn học Hán Nôm Gia Định hòa nhập vào với văn học dân tộc.

Đặc biệt là, trong các gương mặt văn nhân - văn hóa tiêu biểu của đất Gia Định thuở ấy, nổi bật lên nhiều tên tuổi là người gốc Minh hương như Võ Trường Toản - vị xử sĩ đã đào tạo được nhiều môn đồ tài năng như Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh, Huỳnh Ngọc Uẩn… Toàn bộ thành viên trong nhóm Sơn hội đều là người Minh hương. Trong số ba nhân vật lỗi lạc - Gia Định tam gia, thì đã có tới hai người gốc Minh hương (Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tịnh). Cụ nội tổ Trịnh Hoài Đức đến miền Nam nước Việt từ đời chúa Nguyễn Phước Tần (1648 - 1687), lúc đầu ở Phú Xuân, sau chuyển vào Trấn Biên; đến đời Trịnh Hoài Đức thì chuyển về ngụ tại Phiên An (sau này là tỉnh Gia Định). Thế mà trong các nhà văn, nhà thơ thế kỷ XVII - XVIII ở Nam Bộ, “ít có người nào có vốn sống và hiểu biết phong phú về đất Đồng Nai, Gia Định như Trịnh Hoài Đức” [54, tr. 53]. Gia Định thành thông chí của ông là một trong những cuốn sách dư địa chí lớn của nước ta thời trung đại, cho biết nhiều điều lý thú và bổ ích về lịch sử, đất nước và con người Đồng Nai, Gia Định xưa. Thối thực truy biên1 có 127 bài thơ thì có tới 30 bài viết về Gia Định2... Ngô Nhơn Tịnh người gốc Quảng Tây, tổ phụ chạy trốn triều Mãn Thanh, sang cư

trú ở Gia Định. Vì đã coi Việt Nam là tổ quốc của mình nên khi đi sứ Trung Hoa, ông vẫn luôn đau đáu một nỗi niềm nhớ nước thương nhà: “Thân tại cõi Bắc, lòng ở nước Nam/ Nước chảy về biển Đông, trăng lặn phía Tây; Nước sông chảy kiệt liệt người xa quê/ Mai núi nở hết lòng nhớ vườn cũ” [41, tr. 15]; căng cắng hoài bão “báo quốc”: “Báo quốc đan tâm tận/ Tư hương bạch phát tân” (Báo quốc hết lòng son/ Nhớ quê thêm tóc bạc) [41, tr. 437]… Điều đó một lần nữa chứng tỏ, những người Minh hương đã thực sự vượt thoát ra khỏi tâm sự “di thần”, hòa nhập vào cuộc sống của người dân bản xứ. Nơi đây cũng đã trở thành quê hương, thành tổ quốc, thành một phần hồn thiêng liêng trong tâm khảm họ. Thế nên mới có chuyện Mạc Thiên Tích thậm chí đã quên cả lý tưởng “nghĩa bất thần Thanh” của tiên quân Mạc Cửu, mà tâu với Duệ tông Phước Thuần tình nguyện xin qua Quảng Đông cầu viện nhà Thanh giúp quân tiêu diệt Tây Sơn, thu hồi cương thổ. Rõ ràng, lần tiếp nhận các yếu tố Trung Hoa này đã khác về chất so với thời Bắc thuộc. Thay vì tiếp nhận một cách bị động, không tự nguyện, người Việt ở Đàng Trong thời kỳ này đã


1 Một phần trong Cấn Trai thi tập. Phần này được viết vào thời kỳ Trịnh Hoài Đức phiêu bạt nhiều nơi (1782 – 1801), là sáng tác thuộc vào “văn học Đàng Trong”.

2 Theo thống kê của Hoài Anh trong sách Gia Định tam gia, Biên dịch - chú giải: Hoài Anh, Hiệu đính – giới thiệu: TS. Huỳnh Văn Tới, Bùi Quang Huy, NXB Tổng hợp Đồng Nai, Đồng Nai, 2005, tr. 43.

tích lũy được nhiều kinh nghiệm phát triển văn hóa hơn, và có lẽ, chính những kinh nghiệm này giúp họ nhất hóa chứ không đồng hóa các yếu tố văn hóa bên ngoài đưa tới.

Như vậy là đến thời điểm cuối thế kỷ XVIII, văn học Đàng Ngoài đã có sự hiện diện của cả ba loại hình tác giả - nhà nho là nhà nho hành đạo, nhà nho ẩn dật và nhà nho tài tử, khác với Đàng Trong chỉ có sự góp mặt của nhà nho hành đạo và nhà nho ẩn dật. Nếu như việc vắng bóng đội ngũ nhà nho tài tử khiến cho văn học Đàng Trong thiếu đi nét phong lưu, tình tứ và khó đạt tới những thành tựu mang tinh thần nhân văn sâu sắc như ở Đàng Ngoài, thì sự xuất hiện của đội ngũ nhà nho gốc Minh hương tạo điều kiện cho văn học Đàng Trong tiếp nhận trực tiếp gần như đồng thời một số thành tựu từ Trung Hoa, giúp cho văn học Đàng Trong “rút ngắn cách biệt”, nhanh chóng hòa nhập vào với truyền thống dân tộc, thậm chí trên một số phương diện còn góp phần làm phong phú thêm cho truyền thống ấy.

Dù có những khác biệt đó, nhưng nhìn tổng thể, có một điểm chung ở cả hai Đàng là văn chương của nhà nho hành đạo vẫn chiếm số lượng lớn và giữ vai trò quan trọng trong việc làm nên diện mạo của văn học vùng. Do vậy, chính những gặp gỡ, tương đồng và những sự khác biệt trong nguồn gốc, học vấn, vị thế, tâm lý, lý tưởng… của nhà nho hành đạo ở hai Đàng sẽ quy định, một cách căn bản, sự thống nhất và khác biệt trong văn học mỗi vùng, dù không thể phủ nhận, chất “hành đạo” ở Đàng Trong dường như thuần phác hơn, “chân thành” hơn!

3.3. Tương quan với văn học Đàng Ngoài: nhìn từ phương diện nội dung phản ánh

3.3.1. Đề vịnh thiên nhiên

Trong hệ thống chủ đề - đề tài của văn chương hai Đàng, nổi bật một hiện tượng chung là sự chiếm lĩnh của những thi phẩm đề vịnh, đặc biệt là đề vịnh thiên nhiên. Nếu như Đàng Trong có Tư Dung vãn, chùm thơ Quảng Ngãi thập nhị cảnh, Hà Tiên quốc âm thập vịnh, Lư Khê ngư bạc… (chữ Nôm), Ải lĩnh xuân vân, Thiên Mụ hiểu chung, Hà Trung yên vũ, Hà Tiên thập vịnh, Thụ Đức hiên tứ cảnh, Cẩm đường xuân khúc, Vịnh “thiếu nữ phong”… (chữ Hán) thì Đàng Ngoài cũng có Ngã ba Hạc phú, Sứ trình tân truyện, Khâm định Thăng bình bách vịnh, Càn Nguyên ngự chế thi tập… (chữ Nôm), thơ chữ Hán của Ngô Thì Ức, Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Tông Quai, Nguyễn Huy Oánh… Cảm hứng tụng ca, tự hào về văn vật,

cảnh quan đất nước và cuộc sống thái bình, ổn định đương thời là nét chung trong các sáng tác thuộc chủ đề này. Khâm định Thăng bình bách vịnh (Trịnh Căn), ngoài số thơ đề vịnh danh lam thắng tích và khí hậu ra, còn khoảng 50 bài thơ phẩm bình các sự vật thường gặp trong phủ chúa cung vua như nghiên mực, bút viết, thanh gươm, cây cung, quân cờ, con voi, chiến thuyền, cây mai… Bài nào cũng nhằm ngợi ca triều đại, công tích và ân huệ trị dân của bản thân. Càn Nguyên ngự chế thi tập (Trịnh Doanh) có 8 bài thơ ngụ hứng (ký hứng) như thưởng xuân, ngắm trăng, vịnh chùa Phao Sơn, chùa Phả Lại; 14 bài vịnh phong cảnh các nơi (tỉnh nhương ký thắng) như Sài Sơn, Hiến Doanh, Địch Lộng, Thần Phù…; 4 bài vịnh phong cảnh ở kinh thành (kỳ điện ký thắng) như Bồ Đề, Tây Long, chùa Tường Khánh… Nếu như thơ ca đề vịnh thiên nhiên Đàng Trong chủ yếu nở rộ ở thế kỷ XVIII thì chủ đề này lại luôn thường trực trong thơ ca Đàng Ngoài. Đặc biệt trong các tập thơ đi sứ của Nguyễn Quý Đức, Nguyễn Tiến Sách, Nguyễn Mậu Áng, Đinh Nho Hoàn, Nguyễn Tông Quai…, tình cảm mến yêu với cảnh sắc, con người, quê hương, đất nước luôn được bộc lộ một cách thiết tha, trìu mến.

Thiên nhiên trong văn chương Đàng Ngoài đẹp vẻ yên ả, bình dị của một vùng thôn dã truyền thống, ở đó có những người dân lam lũ nhưng tinh thần luôn thư thái, có những thú vui quê kiểng, ân tình:

“Hàng ngày vác bừa đi cuốc xới ruộng hoang,

Luôn luôn gặp người cày ruộng và ông già thôn quê. Khi gặp nhau chỉ nói chuyện làm ruộng, trồng dâu, Ân cần bàn tính đến ngày mưa tạnh.

Vào khoảng tháng bảy tháng tám là mùa cua béo, Con trẻ bắt cua vội mang về nhà.

Gọi trẻ đi nướng cua mua rượu mới nấu, Rót một chén uống rất lấy làm hả hê.

Khi say rồi, nằm khểnh ở cửa sổ bên nam, Thỉnh thoảng có gió mát lướt ngoài song cửa”

(Tiêu dao ngâm - Ngô Thì Ức) [131, tr. 367]

Cảnh sắc mang vẻ mỹ lệ của từ chương truyền thống, đẹp nhưng đôi khi khuôn mẫu bởi tứ thơ quen thuộc, có lúc tao nhã nhưng cũng có lúc trầm buồn, như cái vẻ huyền mặc của một vùng đất cổ:

“Sụt sùi bóng ngả tịch dương,

Bên trời cái nhạn pha sương bay về.

Thớt thưa bến liễu làng hòe,

Vàng gieo đẫy lá bạc khoe đầy cành.

Tiếng thu xào xạc trên xanh, Một đèn hãy tỏ ba canh chưa nằm”

(Sứ trình tân truyện - Nguyễn Tông Quai) [131, tr. 391]

Trái lại, ở Đàng Trong, ngoài một số bài đề vịnh theo âm hưởng tụng ca của văn học cung đình (như những bài đề vịnh của các danh thần phủ chúa), hình tượng thiên nhiên gây ấn tượng bởi vẻ đẹp mỹ lệ, tươi mới, sung mãn sức trẻ:

“Viễn viễn thương lang hàm tịch chiếu Lư Khê yên lý xuất ngư đăng

Hoành ba yểm ánh bạc cô đĩnh, Lạc nguyệt sâm si phù tráo tăng”

(Dòng nước xanh xa xa ngậm ánh nắng tàn Trong làn khói ở Rạch Vược đèn chài ló dạng Sóng ngang gợn gợn thuyền lẻ ghé bến

Trăng soi thấp thoáng lưới chài bang bạc)

(Lư Khê ngư bạc - Mạc Thiên Tích) [131, tr. 708] “Hồ lô hỏa thấp ngưng yên trọng,

Thạch thất nhân hàn tích nhứ đa Xuất trục tương giao năng ngũ thái Quang phù thần võ định sơn hà” (Lửa ẩm hồ lô nên đọng khói

Rét nằm nhà đá phải chồng bông Vượt ra cửa động thành năm vẻ Sáng rực hào quang định núi sông)

(Thạch động thôn vân - Nguyễn Cư Trinh) [38, tr. 310]

Trong đó, hình ảnh con người luôn hiển hiện và điểm xuyết cho bức tranh thiên nhiên ấy bằng những nhịp điệu cuộc sống thường nhật. Như hoạt cảnh nhóm chợ dưới bóng đa, tiều phu ra quán mua rượu, nông phu đi xem bói, trai tráng giữ gìn làng xóm trong thơ Trịnh Hoài Đức:

“Thúy ái sơn bình chướng thủy hương Dung âm tế phế thị triền lương

Điền cầm liệp thú sung Tùng tứ Tì hiện cô ngư mãn Trúc phường. Mãi tửu tiều quy cô điếm tịch,

Chiêm niên nông phản bốc đình hoang. Chu xa hạnh miễn ưu cường đạo,

Lâm tẩu anh hùng nhậm chức phương”

(Núi xanh biếc như bình phong chắn ngang vùng nước, Bóng đa che rợp, chợ búa mát mẻ thay.

Chim muông được, chợ Tùng bày bán đầy rẫy,

Đăng đó nhiều cá hến, phố Trúc hàng dãy bán ngổn ngang. Các bác tiều mua rượu xong đã về hết, quán rượu lại vắng, Mấy nhà nông đi bói đã trở lại nhà rồi, đình thầy bói bỏ không. Không xảy ra trộm cắp, xe thuyền đi lại khỏi lo âu,

Vì đã có các anh hùng địa phương giữ tròn chức vụ)

(Ngư Tân sơn thị) [41, tr. 182 - 183]

Ngay trong Tư Dung vãn, một thiên nhiên được mô tả trên nền những điển tích, điển cố dày đặc nhưng vẫn lưu giữ những cảm xúc tươi mới về cuộc sống, nơi con người sẽ hòa mình trong nhịp sống thanh bình nhưng không kém phần rộn rã với đủ cả ngư tiều canh mục, nơi hứa hẹn cho sự đâm trổ của những tài năng sẽ góp phần làm cho cuộc sống ấy trở nên tốt đẹp hơn bội phần:

“Gió đưa thoảng nực mùi nhang Người tiên đất ngọc, phong quang ưa nhìn

Có nơi vịnh nguyệt bá thuyền

Kim ngâm thảnh thót, chuông chiền đỉnh đang Là nơi từ vũ nghiêm trang,

Trung trinh hai chữ, lửa hương muôn đời Đông tây đều khách vãng lai

Rước ai nọ quán, đưa ai nọ đò Am ta kiệt lập non Vu

Đêm khuya chuông gióng gọi chùa Ba Viên Dập dìu buồm xuống thuyền lên

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 18/12/2022