Vấn đề này được thực hiện dựa trên một số giả định cơ bản như thông tin thị trường hoàn hảo, người tiêu dùng chấp nhận giá và giá của hàng hóa có dạng tuyến tính.
2.2.2. Lý thuyết về sự tác động của thu nhập đến chi tiêu:
Theo lý thuyết của E. Engel (1821 – 1896) về sự tác động của thu nhập đến chi tiêu, đã thực hiện nghiên cứu về ngân sách gia đình và đưa ra kết luận về các mô hình chi tiêu tiêu dùng, là ở những hộ gia đình có mức thu nhập khác nhau thì sẽ có chi phí cho các hàng hóa và dịch vụ không giống nhau. Cụ thể là khi thu nhập tăng lên thì tỷ trọng của thu nhập chi tiêu cho các loại hàng hóa thiết yếu như lương thực thực phẩm tăng lên đến một mức nhất định thì có xu hướng giảm dần và chi tiêu cho các loại hàng hóa xa xỉ càng tăng khi thu nhập càng tăng. Có nghĩa là các hộ dân cư nghèo thường dùng phần lớn thu nhập của họ chi tiêu cho các nhu cầu thiết yếu như lương thực thực phẩm, còn các hộ gia đình giàu có lại dùng phần lớn thu nhập cho chi tiêu các nhu cầu xa xỉ. Sự thay đổi này trong các mô hình chi tiêu tiêu dùng khi thu nhập của các hộ gia đình gia tăng được gọi là quy luật Engel. Vậy theo lý thuyết về sự tác động của thu nhập đến chi tiêu của E.Engel (1895) cho thấy sự biến động của thu nhập có tác động đến chi tiêu của hộ dân cư đối với một loại hàng hóa nào đó.
2.2.3. Lý thuyết về đầu tư cho giáo dục của hộ gia đình:
Giáo dục và đào tạo là khoản đầu tư quan trọng nhất trong chiến lược phát triển vốn con người theo nghiên cứu về vốn con người của Schultz (1961) và Becker (1975). Nhiều nghiên cứu đã chứng minh rằng giáo dục trung học và đại học ở Mỹ là nhân tố góp phần cải thiện đáng kể thu nhập của cá nhân, ngay cả khi đã khấu trừ chi phí trực tiếp và gián tiếp của việc đi học ở trường, và thậm chí là sau khi tính đến thực tế người có trình độ giáo dục cao thường có chỉ số IQ tốt hơn, có phụ huynh giàu có và học cao hơn. Bằng chứng tương tự tồn tại trong nhiều năm nay đã xuất hiện ở hơn 100 quốc gia khác biệt về văn hóa và hệ thống kinh tế. Thu nhập của những người có trình độ giáo dục cao hầu như luôn vượt xa mức trung bình, tuy nhiên nhìn chung thì lợi ích từ trình độ học vấn ở các nước kém phát triển là lớn hơn. Nhiều nghiên cứu cũng chỉ ra rằng cha mẹ quyết định số năm đi học của con cái và số năm đi học ít hay nhiều phụ thuộc vào sự kỳ vọng về thu nhập của con cái họ trong tương lai. Trong đầu tư giáo dục, cha mẹ là nhà đầu tư, lợi nhuận thu được là khoản chênh lệch giữa hiện giá thu nhập trong tương lai của con cái với chi phí cho giáo dục. Đối tượng của đầu tư giáo
dục một là đầu tư cho các cấp học từ tiểu học đến đại học, thứ hai là đầu tư cho giáo dục thành niên để nâng cao trình độ trí tuệ cho người lao động đang làm việc.
2.2.4. Hành vi ra quyết định của hộ gia đình:
Hộ gia đình trong nền kinh tế được xem là một bộ phận tiêu dùng, là tập hợp tổng thể gồm nhiều thành viên nên hành vi ra quyết định về một vấn đề nào đó dù ít hay nhiều cũng phải chịu sự chi phối từ các thành viên khác trong hộ. Nghiên cứu của Douglas (1983) cũng đã nhắc lại một lần nữa là hành vi ra quyết định của hộ gia đình cần lưu ý một số điểm sau:
- Quy trình ra quyết định của hộ dân cư không những chịu sự chi phối của các thành viên trong hộ mà còn chịu tác động của nhiều yếu tố bên ngoài rất phức tạp, vì vậy để quyết định có lợi nhất, để tối đa hóa tổng hữu dụng của hộ gia đình, hạn chế những lựa chọn bất lợi thì gia đình cần phải tính toán cân nhắc trước khi đưa ra quyết định. Các yếu tố bên ngoài tác động có thể từ người bán hàng hoặc các đối tượng khác có khả năng tác động đến việc ra quyết định đó.
- Hoàn cảnh và điều kiện sống, các chính sách quy định quyền và nghĩa vụ tác động đến hộ gia đình đó cũng ảnh hưởng đến hành vi ra quyết đinh của hộ gia đình.
Tóm lại, quá trình ra quyết định của hộ gia đình về một vấn đề nào đó, như quyết định chi tiêu,… thì đều chịu tác động của nhiều yếu tố liên quan, từ đặc điểm hộ gia đình đến các điều kiện bên ngoài như môi trường xã hội, các quy định của chính phủ,… Do đó quá trình ra quyết định chi tiêu cho giáo dục của hộ gia đình cần phải được xem xét nghiên cứu trong trường hợp bị ảnh hưởng bỡi nhiều yếu tố.
2.3. Các nghiên cứu trước liên quan:
Luận văn thạc sĩ “Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu của hộ gia đình cho giáo dục ở vùng Đông Nam Bộ” (2012) của tác giả Trần Thanh Sơn, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu KSMS hộ dân cư năm 2008 được TCTK Việt Nam thực hiện với 594 hộ gia đình ở vùng Đông Nam Bộ. Tác giả đã sử dụng các biến: (i) đặc điểm chung của hộ gia đình (tổng chi tiêu, tổng số người của hộ, nơi sinh sống), (ii) đặc điểm của chủ hộ (dân tộc, giới tính, độ tuổi, trình độ học vấn), (iii) chính sách hỗ trợ tài chính giáo dục vào mô hình nghiên cứu. Kết quả chỉ ra rằng yếu tố tổng chi tiêu của hộ gia đình là yếu tố có tác động mạnh nhất đến chi tiêu giáo dục,
khi tổng chi tiêu của hộ càng cao thì chi tiêu giáo dục càng nhiều. Tiếp theo yếu tố trình độ cao nhất về học vấn của chủ hộ, trình độ học vấn càng cao thì chi tiêu cho giáo dục càng nhiều và ngược lại. Một yêu tố khác là nếu hộ dân cư nhận được càng nhiều trợ cấp tài chính giáo dục thì mức chi của hộ cho giáo dục cũng tăng. Và các hộ gia đình sống ở thành thị thì có mức chi tiêu cho học tập cao hơn hộ sống ở nông thôn. Kết quả cũng cho thấy rằng các yếu tố như tổng số người của hộ, độ tuổi, dân tộc và giới tính của chủ hộ không ảnh hưởng đến chi tiêu học tập của hộ dân cư.
Luận văn thạc sỹ “Đánh giá tác động của đặc điểm hộ gia đình đến chi tiêu giáo dục trung học của hộ gia đình Việt Nam” (2013) của tác giả Đào Thị Yến Nhi, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu thứ cấp của cuộc điều tra KSMS hộ gia đình năm 2010 của TCTK Việt Nam với 2.955 hộ dân cư trong cả nước. Tác giả đã sử dụng các biến: (i) đặc điểm kinh tế hộ gia đình, (ii) Đặc điểm nhân khẩu học của hộ gia đình,
(iii) đặc điểm khu vực sinh sống của hộ gia đình để phân tích. Kết quả cho thấy là chi tiêu trung bình và chi tiêu thực phẩm của hộ có ảnh hưởng rõ nhất đến chi tiêu giáo dục trung học của hộ. Yếu tố trình độ học vấn của chủ hộ cũng tương quan dương đến mức chi tiêu giáo dục của hộ. Và tuổi của chủ hộ càng cao thì xu hướng chi tiêu cho giáo dục trung học càng nhiều và đến một mức nào đó thì giảm dần. Yếu tố sắc tộc của chủ hộ cũng ảnh hưởng đến chi tiêu giáo dục trung học, kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng dân tộc Kinh và Hoa có mức chi tiêu giáo dục cao hơn các dân tộc khác. Một yếu tố nữa có tác động đến chi phí học tập là khu vực sinh sống của hộ gia đình, gia đình ở khu vực thành thị có mức chi tiêu cho giáo dục trung học cao hơn hộ gia đình sống ở nông thôn. Các yếu tố số người đang đi học ở các bậc học khác, số trẻ em dưới 6 tuổi, giới tính và tình trạng hôn nhân của chủ hộ không có tác động đến chi tiêu giáo dục trung học của hộ dân cư Việt Nam.
Luận văn thạc sỹ “Phân tích yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu giáo dục của các hộ gia đình ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung” (2014) của tác giả Nguyễn Thị Hồng Hạnh, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
Tác giả sử dụng bộ dữ liệu của cuộc KSMS 2010 của TCTK Việt Nam với 2044 hộ dân. Trong nghiên cứu tác giả sử dụng các biến: (i) Đặc điểm kinh tế của hộ gia đình, (ii) đặc điểm nhân khẩu học của hộ gia đình, (iii) Đặc điểm khu vực sinh sống của hộ dân cư để phân tích. Kết quả cho thấy chi tiêu bình quân của hộ dân cư có
tác động tích cực và rõ rệt nhất. Chi tiêu thực phẩm và chi tiêu y tế có tác động tích cực đến chi tiêu giáo dục. Các yếu tố dân tộc, trình độ cao nhất về học vấn của chủ hộ, tổng số người của hộ, giới tính của trẻ, nơi sinh sống của hộ cũng có tác động đến chi tiêu giáo dục.
Nghiên cứu “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho giáo dục của người dân ở Đồng bằng Sông Cửu Long” (2014) của tác giả Khổng Tiến Dũng và Phạm Lê Thông (2014), Trường Đại học Cần Thơ.
Tác giả sử dụng bộ dữ liệu của điều tra KSMS hộ dân cư Việt Nam năm 2010 với 1905 mẫu quan sát. Kết quả chứng minh rằng học vấn chủ hộ càng cao sẽ càng tăng chi tiêu cho giáo dục, xu hướng này giống với các yếu tố khác như thu nhập trong gia đình và tuổi chủ hộ. Thu nhập tăng sẽ góp phần làm tăng đáng kể khoản chi tiêu cho giáo dục của người dân ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Ngoài ra, các yếu tố như học thêm, số nam, nữ đi học cũng góp phần làm tăng mức chi tiêu này.
Luận văn thạc sỹ “Đánh giá các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu giáo dục của thành thị - nông thôn Việt Nam” (2014) của tác giả Nguyễn Minh Thuấn, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu của KSMS hộ gia đình Việt Nam năm 2010 và 2012 của TCTK Việt Nam với 5.679 hộ dân cư năm 2010 và 5.609 hộ năm 2012. Tác giả đưa các biến vào mô hình để phân tích là: (i) Đặc điểm kinh tế của hộ dân cư (Tổng chi tiêu bình quân), (ii) Đặc điểm của chủ hộ (giới tính, tuổi, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, dân tộc), (iii) Đặc điểm chung của hộ gia đình (quy mô hộ, số người đi học của hộ, khu vực sinh sống). Kết quả nghiên cứu cho thấy tổng chi tiêu bình quân là biến có ảnh hưởng mạnh nhất đến chi tiêu giáo dục của hộ. Yếu tố tuổi của chủ hộ cũng tác động đến chi tiêu học tập, chủ hộ còn trẻ tác động tích cực tới chi tiêu cho giáo dục và ngược lại. Học vấn, tình trạng hôn nhân, sắc tộc của người chủ gia đình, tổng số người trong hộ, số thành viên đi học của hộ, khu vực sinh sống của hộ cũng tác động đến chi tiêu giáo dục của hộ.
Luận văn thạc sỹ “ Đánh giá tác động của đặc điểm hộ gia đình đến chi tiêu giáo dục hộ gia đình các tỉnh ven biển vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long” (2015) của tác giả Lê Thanh Tòng, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu KSMS dân cư 2012 của TCTK Việt Nam với mẫu 533 hộ dân cư. Tác giả sử dụng các biến: (i) Đặc điểm kinh tế của hộ gia đình, (ii)
Đặc điểm nhân khẩu học của hộ gia đình, (iii) Đặc điểm khu vực sinh sống của hộ gia đình. Kết quả cũng chứng minh được yếu tố chi tiêu có ảnh hưởng rõ nhất đến chi tiêu giáo dục của hộ. Các yếu tố trình độ học vấn, dân tộc của chủ hộ, số thành viên dưới 6 tuổi, khu vực sinh sống cũng tác động đến mức chi giáo dục của hộ. Các yếu tố quy mô hộ, giới tính và tình trạng hôn nhân của chủ hộ không có tác động đến chi tiêu của hộ dân cư cho giáo dục.
Luận văn thạc sỹ “Phân tích các nhân tố tác động đến chi tiêu giáo dục của hộ gia đình khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long” (2017) của tác giả Nguyễn Lưu Trung, Trường Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh.
Nghiên cứu sử dụng dữ liệu của cuộc điều tra KSMS hộ gia đình Việt Nam năm 2014 do TCTK Việt Nam thực hiện với 1.905 hộ của khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long. Trong nghiên cứu tác giả đưa các biến sau để phân tích là: (i) Đặc điểm học tập trẻ em (số trẻ em đi học, học thêm), (ii) Đặc điểm của chủ hộ (giới tính, học vấn, dân tộc, độ tuổi), (iii) đặc điểm hộ (thu nhập, số người trong hộ, nghề nghiệp, nơi sinh sống), (iv) tiếp cận chính sách hỗ trợ giáo dục. Kết quả nghiên cứu cho thấy đặc điểm học tập của trẻ em trong hộ (số lượng trẻ trong độ tuổi đi học) là nhân tố tác động nhiều nhất đến chi tiêu giáo dục của hộ, bên cạnh đó nhân tố học thêm của trẻ cũng có tác động dương đến chi tiêu cho giáo dục của hộ. Thứ 2 là nhóm biến về đặc điểm hộ dân cư (thu nhập và số người của hộ) ảnh hưởng có ý nghĩa đến chi tiêu của hộ cho giáo dục. Thứ 3 là nhóm biến về đặc điểm của chủ hộ (trình độ học vấn, dân tộc và độ tuổi) cũng có tác động đến chi tiêu học tập của hộ, dân tộc của chủ hộ là Kinh hoặc Hoa sẽ có tác động mạnh hơn các dân tộc khác. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng trợ cấp giáo dục cũng tác động đến mức chi cho giáo dục của hộ. Các nhân tố như hộ nông nghiệp, nơi sinh sống, giới tính chủ hộ, chủ hộ là cán bộ viên chức không thấy có mối liên hệ đến chi tiêu giáo dục của hộ.
Luận văn thạc sỹ “ Đánh giá tác động đặc điểm hộ gia đình đến chi tiêu cho giáo dục hộ gia đình Việt Nam” (2017) của tác giả Phan Ka Luốt, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM.
Nghiên cứu sử dụng bộ dữ liệu thứ cấp của cuộc KSMS hộ dân cư năm 2014 do TCTK Việt Nam thực hiện với 5.637 hộ gia đình trên cả nước. Trong nghiên cứu tác giả sử dụng các biến: (i) Đặc điểm chủ hộ (giới tính, dân tộc, tuổi, học vấn, tình trạng hôn nhân, khu vực sinh sống), (ii) Quy mô hộ, (iii) Đặc điểm chi tiêu của hộ (chi tiêu y
tế, chi tiêu thực phẩm, chi tiêu bình quân), (iv) Vùng sinh sống. Kết quả: Biến giới tính của chủ hộ không có mối liên hệ với chi tiêu học tập, các biến còn lại: dân tộc, tuổi, học vấn và tình trạng hôn nhân của chủ hộ, khu vực sinh sống của hộ, quy mô hộ và nhóm đặc điểm chi tiêu của hộ (chi tiêu y tế, chi tiêu thực phẩm, chi tiêu bình quân) đều có tác động đến chi tiêu giáo dục của hộ.
Bảng 2.1: Tổng hợp các nghiên cứu trước về CTGD của hộ gia đình
Mô tả nghiên cứu | Kết quả nghiên cứu | |
Nghiên cứu “Các nhân tố ảnh hưởng đến chi tiêu của hộ gia đình cho giáo dục ở vùng Đông Nam bộ” của Trần Thanh Sơn (2012) | - Dữ liệu nghiên cứu là của KSMS dân cư năm 2008 của TCTK Việt Nam, được trích xuất cho vùng Đông Nam bộ, với 594 quan sát. - Phương pháp nghiên cứu: Thống kê mô tả và hồi quy OLS - Các biến độc lập kỳ vọng: tổng chi tiêu, quy mô hộ, nơi sinh sống của hộ, dân tộc, giới tính, trình độ học vấn, tuổi của chủ hộ và các trợ cấp cho giáo dục. | Kết quả tổng chi tiêu, trình độ học vấn của chủ hộ, các chính sách hỗ trợ cho giáo dục, nơi sinh sống của hộ là các yếu tố có ảnh hưởng đến chi tiêu cho giáo dục của hộ gia đình ở vùng Đông Nam bộ. |
Nghiên cứu “Đánh giá tác động của đặc điểm hộ gia đình đến chi tiêu giáo dục trung học của hộ gia đình Việt Nam” Đào Thị Yến Nhi (2013) | - Dữ liệu nghiên cứu là của KSMS dân cư năm 2010 của TCTK Việt Nam, với 2.955 quan sát. - Phương pháp nghiên cứu: Hồi quy OLS - Các biến độc lập kỳ vọng: chi tiêu bình quân, chi tiêu bình quân thực phẩm, tuổi, trình độ học vấn, giới tính chủ hộ, dân tộc chủ hộ, | Kết quả chi tiêu bình quân, chi tiêu thực phẩm của hộ, trình độ học vấn chủ hộ, tuổi chủ hộ, dân tộc chủ hộ, khu vực sinh sống của hộ có tác động đến mức chi tiêu giáo dục của hộ gia đình Việt Nam. |
Có thể bạn quan tâm!
- Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến chi tiêu giáo dục của hộ gia đình trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 1
- Các yếu tố cơ bản ảnh hưởng đến chi tiêu giáo dục của hộ gia đình trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 2
- Mô Hình Và Phương Pháp Nghiên Cứu
- Tóm Tắt Các Biến Lấy Từ Bộ Dữ Liệu Vhlss 2014
- Mô Tả Chi Tiêu Cho Giáo Dục Theo Các Biến Của Mô Hình
Xem toàn bộ 87 trang tài liệu này.
tình trạng hôn nhân của chủ hộ, số thành viên còn đi học của hộ, khu vực sinh sống của hộ. | ||
Nghiên cứu “Phân tích yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu giáo dục của các hộ gia đình ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung” của Nguyễn Thị Hồng Hạnh (2014). | - Dữ liệu nghiên cứu là của KSMS dân cư năm 2010 của TCTK Việt Nam, với 2.044 quan sát. - Phương pháp nghiên cứu: Hồi quy OLS - Các biến độc lập kỳ vọng: chi tiêu bình quân, chi tiêu thực phẩm, chi tiêu y tế, dân tộc chủ hộ, trình độ học vấn chủ hộ, tuổi chủ hộ, quy mô hộ, giới tính trẻ đi học, nơi sinh sống của hộ. | Kết quả: chi tiêu bình quân của hộ, chi tiêu thực phẩm, chi tiêu y tế, dân tộc, học vấn chủ hộ, tổng số người trong hộ, giới tính của trẻ đi học, nơi sinh sống của hộ có tác động đến chi tiêu giáo dục của hộ gia đình ở vùng Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung. |
Nghiên cứu “Phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến chi tiêu cho giáo dục của người dân ở Đồng bằng Sông Cửu Long” của Khổng Tiến Dũng và Phạm Lê Thông (2014), | - Dữ liệu nghiên cứu là của KSMS dân cư năm 2010 của TCTK Việt Nam, với 1.905 quan sát. - Phương pháp nghiên cứu: Mô hình Tobit - Các biến độc lập kỳ vọng: trình độ học vấn của chủ hộ, tuổi chủ hộ, giới tính chủ hộ, số người nam đi học, số người nữ đi học, tổng thu nhập gia đình, học thêm, trợ cấp giáo dục. | Kết quả cho thấy trình độ học vấn, tuổi chủ hộ, tổng thu nhập của hộ, tình trạng học thêm, số người nam và nữ đi học của hộ là các yếu tố có ảnh hưởng đến chi tiêu giáo dục của các hộ gia đình ở Đồng bằng Sông Cửu Long. |
Nghiên cứu “Đánh giá các | - Dữ liệu nghiên cứu là của | Kết quả nghiên cứu cho |
KSMS dân cư năm 2010 và 2012 của TCTK Việt Nam, với 5.679 (2010) và 5609 (2012) quan sát. - Phương pháp nghiên cứu: Hồi quy OLS - Các biến độc lập kỳ vọng: tổng chi tiêu bình quân, giới tính, tuổi, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, dân tộc của chủ hộ, quy mô hộ, số thành viên đi học của hộ, khu vực sinh sống của hộ. | thấy tổng chi tiêu bình quân, tuổi của chủ hộ, trình độ học vấn, tình trạng hôn nhân, sắc tộc của chủ hộ, quy mô hộ, số thành viên đi học của hộ, khu vực sinh sống của hộ có ảnh hưởng đến chi tiêu giáo dục của hộ gia đình Việt Nam. | |
Nghiên cứu “ Đánh giá tác động của đặc điểm hộ gia đình đến chi tiêu giáo dục hộ gia đình các tỉnh ven biển vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long” Lê Thanh Tòng (2015) | - Dữ liệu nghiên cứu là của KSMS dân cư năm 2012 của TCTK Việt Nam, với 533 quan sát. - Phương pháp nghiên cứu: Hồi quy OLS - Các biến độc lập kỳ vọng: chi tiêu, chi tiêu thực phẩm, quy mô hộ, học vấn cao nhất, giới tính và dân tộc chủ hộ, tình trạng hôn nhân chủ hộ, số thành viên còn đi học và trẻ dưới 6 tuổi, giới tính của trẻ, khu vực sinh sống của hộ. | Kết quả cũng cho thấy yếu tố chi tiêu có tác động rõ nhất đến chi tiêu của hộ cho giáo dục. Các yếu tố trình độ học vấn, dân tộc của chủ hộ, số thành viên dưới 6 tuổi, khu vực sinh sống cũng tác động đến mức chi tiêu giáo dục của hộ gia đình ở vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. |
Nghiên cứu “Phân tích các nhân tố tác động đến chi tiêu giáo dục của hộ gia | - Dữ liệu nghiên cứu là của KSMS dân cư năm 2014 của TCTK Việt Nam, với | Kết quả nghiên cứu cho thấy số lượng trẻ trong độ tuổi đi học là nhân tố ảnh |