Ngoài ra, nói về những yếu tố thuộc về đặc điểm ngân hàng có tác động đến RRTD còn có các yếu tố như: cơ chế kiểm soát RRTD, cơ chế đánh giá rủi ro, năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiêp của cán bộ tín dụng.
2.2.3. Các yếu tố thuộc về khách hàng
2.2.3.1. Yếu tố tài chính
Tiềm lực tài chính
Tiềm lực tài chính ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro tổng thể của khách hàng. Không có giao dịch nào là không có rủi ro, nếu khách hàng có tiềm lực tài chính mạnh thì việc một giao dịch không thành công sẽ không làm khách hàng mất đi khả năng trả nợ, nếu tài chính yếu thì khi có một giao dịch không thành công thì lập tức có ảnh hưởng đến khách hàng cũng như khả năng trả nợ của khách hàng. Các ngân hàng cần đặc biệt nhạy cảm đến những thay đổi trạng thái thanh khoản của khách hàng vì các khoản nợ phải bắt nguồn từ sự chuyển đổi thành tiền của các tài sản lưu động. Khả năng thanh khoản của khách hàng giảm làm tăng khả năng ngân hàng sẽ phải giải quyết các tài sản khác của khách hàng để thu hồi vốn. Quá trình này thường mất nhiều thời gian và tốn kém với kết quả không chắc chắn.
Bên cạnh các doanh nghiệp có tình hình tài chính lành mạnh, hoạt động kinh doanh có hiệu quả, cũng còn có không ít các doanh nghiệp có tình hình tài chính không tốt, hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, vay nợ chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn và khả năng dự báo thị trường yếu vẫn được ngân hàng cho vay, thậm chí được vay với số tiền rất lớn.
Tình hình tài chính doanh nghiệp yếu kém, thiếu minh bạch, quy mô nguồn vốn chủ sở hữu nhỏ bé, cơ cấu tài chính thiếu cân đối là đặc điểm chung của hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam. Công tác quản lý tài chính kế toán còn tùy tiện, thiếu đồng bộ, mang tính đối phó, làm cho thông tin ngân hàng có được không chính xác, chỉ mang tính chất hình thức. Do đó, khi cán bộ ngân hàng lập các bản phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cung cấp, thường
thiếu tính thực tế và sai lệch quá nhiều, rủi ro xảy ra là lẽ đương nhiên. (Nguyễn Đăng Dờn, 2012)
Sử dụng vốn vay:
Mục đích sử dụng vốn là căn cứ quan trọng để ngân hàng xem xét cấp tín dụng cho khách hàng. Ngân hàng chỉ cấp tín dụng cho việc sử dụng vốn đúng mục đích và đảm bảo khả năng trả nợ. Khi đánh giá mục đích vay cũng như là phương án vay vốn của khách hàng thì ngân hàng đã xem xét các rủi ro có thể gặp phải và dự phòng phương án khắc phục. Vì vậy việc khách hàng sử dụng vốn đúng mục đích vay có ý nghĩa quan trọng đối với khả năng trả nợ. Khi khách hàng sử dụng vốn vào mục đích khác, không đúng với phương án đã gửi ngân hàng thì có khả năng xảy ra những rủi ro nằm ngoài những phương án dự phòng và khả năng khách hàng không trả được nợ dễ xảy ra.
2.2.3.1. Yếu tố phi tài chính
Đạo đức, uy tín của khách hàng:
Đây là yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố phi tài chính có tác động đến khả năng hoàn trả nợ và vì vậy, nó cũng là một trong những yếu tố gây ra rủi ro ngân hàng. Bằng nhiều thủ đoạn tinh vi hoặc lợi dụng sự tín nhiệm của ngân hàng, người vay đã lập hồ sơ vay chiếm đoạt tài sản ngân hàng. Khi khách hàng vay cố tình gian lận, lừa đảo thì rất khó để ngân hàng phát hiện ra, đặc biệt là những ngân hàng nhỏ, có quy trình tín dụng chưa chặt chẽ, trình độ cản bộ thẩm định chưa cao. Số lượng khách hàng được cấp tín dụng sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều, nhưng không phải không có, thậm chí có những vụ việc phát sinh hết sức nặng nề và nghiêm trọng, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hướng xấu đến các khách hàng khác.
Mặc dù vậy, trong thực tế, yếu tố này không phải dễ đánh giá, nguồn cung cấp thông tin hiện tại ở Việt Nam chỉ là phi chính thức và ngân hàng có thể sẽ đưa ra quyết định mang tính cảm tính.
Năng lực quản trị, kinh nghiệm kinh doanh
Năng lực quản trị là yếu tố tác động rất lớn và là yếu tố cốt lõi ảnh hưởng đến khả năng trả nợ, đặc biệt đối với khách hàng doanh nghiệp. Một vài khoản vay có thể phải gia hạn khi môi trường kinh daonh gặp khó khăn giá nguyên liệu tăng, chu kỳ kinh tế đi xuống, các khách hàng có trình độ năng lực quản trị cao luôn biết làm điều tốt nhất cho doanh nghiệp của mình, thời hạn cho vay có thể phải kéo dài nhưng khả năng trả nợ luôn được đảm bảo.
Kinh nghiệm của khách hàng vay là số năm người vay làm việc trong ngành nghề vay vốn tín đến thời điểm vay. Khách hàng có kinh nghiệm càng nhiều thì thường dựa vào kinh nghiệm, dựa vào các mối quan hệ có sẵn do đó hoạt động kinh doanh sẽ ổn đinh hơn, khách hàng có thể dự đón được tình hình thị trường của ngành nghề đó, từ đó có những tính toán cho hoạt động kinh doanh. Ngoài ra, khi đã kinh doanh lâu năm trong ngành, khách hàng sẽ có lượng đối tác ổn định và uy tín khách hàng đã có, thuận lợi trong hoạt động tín dụng thương mại. Khách hàng càng non trẻ kinh nghiệm trong ngành thì càng dễ gặp rủi ro hơn so với những khách hàng hoạt động lâu năm dựa trên những lý do cơ bản được phân tích trên đây.
Uy tín, lịch sử trả nợ:
Xem xét lịch sử trả nợ trong quá khứ là quan trọng bởi đây là tín hiệu cho biết khách hàng có đang gặp khó khăn về tài chính không và có ý định thiện chí trả nợ không. Nếu khách hàng có lịch sử trả nợ không tốt thì có khả năng sẽ tiếp diễn hiện tượng đó trong tương lai.
2.3. Lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm trên thế giới về các yếu tố tác động đến rủi ro tín dụng ngân hàng thương mại
Phần lớn các nghiên cứu trước đây trên thế giới đều sử dụng biến nợ xấu là biến phụ thuộc trong mô hình để nói về RRTD, như đã đề cập ở chương 1, tác giả cũng nhận thấy tỷ lệ nợ xấu có đầy đủ các tố chất cần thiết và đặc trưng hơn hẳn các chỉ tiêu đo lường còn lại, điều đó phù hợp với các đối tượng của các bài nghiên cứu trước đây. Do đó, phần lược khảo sau đây ngoài việc tồng hợp các nghiên cứu về
cac yếu tố tác động đến RRTD, có đề cập thêm các nghiên cứu về các yếu tố tác động đến nợ xấu, nhằm làm dẫn chứng thêm cho việc lựa chọn các biến của mô hình trong chương 4.
Nghiên cứu của Clair (1992): Nghiên cứu tập trung về ảnh hưởng của tăng trưởng tín dụng đến nợ xấu.
Trong nghiên cứu của Clair, chất lượng khoản vay được đo lường bằng tỷ lệ nợ xóa sổ (nợ đưa ra khoản bảng cân đối kế toán chờ theo dõi) so với tổng nợ, và tỷ lệ nợ xấu (NPLs) so với tổng nợ. Tác giả thực hiện hồi quy biến phụ thuộc lần lượt là tỷ lệ nợ xóa sổ và tỷ lệ nợ xấu. Nghiên cứu của Clair không xem xét tác động của các yếu tố liên quan đến môi trường kinh tế vĩ mô. Mô hình hồi quy có dạng mô hình trễ phân phối với biến tăng trưởng tín dụng lấy 3 biến ở 3 độ trễ liên tiếp. Tác giả thực hiện hồi quy dữ liệu bảng được thu thập thông tin từ các Ngân hàng ở Texas từ năm 1984 đến năm 1990, với số lượng quan sát lớn (11.903 quan sát) để chạy mô hình. Kết quả chỉ ra rằng tăng trưởng tín dụng thông qua các khoản vay của khách hàng mới hoặc hiện hữu thì ban đầu sẽ tác động tích cực đến chất lượng tín dụng nhưng sẽ làm giảm chất lượng tín dụng sau một độ trễ nhất định. Mối quan hệ giữa tăng trưởng tín dụng và chất lượng tín dụng còn phụ thuộc vào vị thế vốn chủ sở hữu ngân hàng. Ngân hàng tăng trưởng nhanh với tỷ lệ vốn sở hữu so với tổng tài sản cao thì không tìm thấy bằng chứng tác động làm giảm chất lượng khoản vay.
Nghiên cứu của Lis et al., 2001: Nghiên cứu tập trung vào ảnh hưởng của tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng GDP đến nợ xấu:
Điểm nổi bật hơn so với nghiên cứu của Clair, Lis và các cộng sự đã thực hiện nghiên cứu để xem xét mối liên hệ giữa chu kỳ kinh tế, tăng trưởng tín dụng và nợ xấu. Cũng với biến phụ thuộc là tỷ lệ nợ xấu (NPLs), các biến độc lập bao gồm các yếu tố vi mô như tăng trưởng tín dụng, quy mô ngân hàng, hiệu quả hoạt động, tỷ lệ khoản vay không thế chấp, và xem xét thêm tác động của môi trường kinh tế vĩ mô là tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP).
Mô hình nghiên cứu là mô hình động ở dạng tự hồi quy và phân phối trễ với độ trễ là 2 và 3 năm đối với một số biến độc lập. Dữ liệu nghiên cứu thu thập được trong thời gian 10 năm từ năm 1988 đến 1997, số lượng quan sát tác giả thu thập được để thực hiện ước lượng mô hình lên đến 934 quan sát.
Kết quả nghiên cứu của Lis và các cộng sự cho thấy có mối quan hệ rất chặt chẽ giữa các khoản vay có vấn đề và chu kỳ kinh tế. Và mối quan hệ này là tiêu cực tức là tỷ trọng các khoản vay có vấn đề tăng khi tốc độ tăng trưởng GDP chậm, và ngược lại (Lis, Pagés, & Saurina, 2001).
Ngoài yếu tố kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng trưởng GDP, Lis và các cộng sự cho rằng sự tăng trưởng tín dụng nhanh chóng là một trong những nguyên nhân quan trọng của các khoản nợ xấu. Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng tăng trưởng tín dụng tác động đến nợ xấu với độ trễ tương đối dài - 3 năm. Trong suốt thời kỳ mở rộng kinh tế, các ngân hàng tham gia vào thị trường cạnh tranh khốc liệt để giành thị phần cho vay, dẫn đến tốc độ tăng trưởng tín dụng mạnh mẽ.
Nghiên cứu của Larry D. Wall và Ifterkhar Hasan (2003) phân tích các yếu tố quyết định đến rủi ro tín dụng của các ngân hàng, với mẫu nghiên cứu được lựa chọn từ các ngân hàng Mỹ và các ngân hàng ngoài nước Mỹ bao gồm Canada, Nhật và một nhóm 21 quốc gia. Tác giả sử dụng mô hình nhân tố tác động cố định (fixed effects) để xác định và đo lường mức độ tác động của các nhân tố đến mức rủi ro tín dụng. Kết quả thể hiện các nhân tố đều được xác định là có ảnh hưởng rủi ro tín dụng nhưng có sự khác nhau về ý nghĩa thống kê giữa 2 khu vực. Cụ thể là các ngân hàng ở Mỹ có mức ý nghĩa thống kê thấp hơn các ngân hàng khác về rủi ro tín dụng, nợ xấu và tỷ lệ giá trị tổn thất ròng. Nghiên cứu chỉ ra rằng, mức trích lập dự phòng rủi ro tín dụng có ảnh hưởng tích cực đến nợ xấu.
Nghiên cứu của Hu et al., 2004: Nghiên cứu ảnh hưởng của cơ cấu vốn chủ sở hữu, quy mô ngân hàng đến nợ xấu.
Các tác giả đã sử dụng dữ liệu của 40 NHTM Đài Loan trong giai đoạn 1996
- 1999. Mô hình được đưa vào bài nghiên cứu là mô hình phi tuyến tính ở dạng bậc
2. Biến phụ thuộc là tỷ lệ nợ xấu của các NHTM, biến độc lập bao gồm tỷ lệ sở hữu nhà nước, quy mô ngân hàng, chỉ số đa dạng hóa. Với phương pháp chạy dữ liệu là phương bình phương tối thiểu OLS, phương pháp hiệu ứng cố định FE và phương pháp tác động ngẫu nhiên RE. Một số thử nghiệm thống kê được thực hiện để lựa chọn phương pháp tốt nhất để thực hiện phân tích thực nghiệm.
Kết quả cho thấy quy mô của các ngân hàng tác động nghịch đến tỷ lệ nợ xấu, hỗ trợ lập luận của các tác giả là các ngân hàng lớn có nhiều nguồn lực để nâng cao chất lượng các khoản vay.
Abhiman Das và Saibal Ghosh (2007) sử dụng phương pháp uớc lượng GMM để kiểm tra các biến kinh tế vĩ mô và biến kinh tế vi mô ảnh hưởng đến các khoản vay có vấn đề của các ngân hàng Ấn Độ trong giai đoạn 1994-2005. Kết quả cho thấy, cả yếu tố vĩ mô và yếu tố vi mô đều ảnh hưởng đến khoản vay có vấn đề. Ở cấp vĩ mô là tăng trưởng GDP, ở cấp ngân hàng là tăng trưởng tín dụng, chi phí hoạt động và quy mô ngân hàng
Bofondi and Ropele (2011) kiểm tra những yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến rủi ro khoản vay của ngân hàng ở Italia giai đoạn quý 1 năm 1990 đến quý 2 năm 2010. Nghiên cứu này sử dụng phương trình hồi quy đơn chuỗi dữ liệu theo thời gian. Tỷ lệ rủi ro khoản cho vay ngân hàng được tính bằng tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng chia cho tổng giá trị khoản cho vay quá hạn ở giai đoạn trước đó. Hai tác giả đã tìm thấy rằng rủi ro cho khoản cho vay ngân hàng tăng lên khi kết hợp với sự tăng lên của tỷ lệ thất nghiệp và lãi suất danh nghĩa ngắn hạn.Trong khi đó lại có chiều hướng biến động ngược chiều với tốc độ tăng trưởng GDP và giá nhà.
Louzis và các cộng sự (2012) thực hiện nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến nợ xấu của hệ thống ngân hàng Hy Lạp trong đó đưa cả ba biến kinh tố vĩ mô: GDP, tỷ lệ thất nghiệp, lãi suất thực để kiểm tra xem những yếu tố vĩ mô này có vai trò như thế nào trong việc giải thích sự thay đổi của tỷ lệ nợ xấu. Trong khi đa phần các nghiên cứu khác sử dụng dữ liệu theo năm, bài nghiên cứu của Louzis, Vouldis, & Metaxas (2012) sử dụng dữ liệu bảng với số liệu thu thập theo quý trong khoảng
thời gian từ quý I năm 2003 đến quý III năm 2009. Tuy nhiên số lượng ngân hàng thuộc mẫu khá ít, số liệu chỉ thu thập được từ 9 NHTM Hy Lạp.
Tác giả sử dụng phương pháp ước lượng GMM và thu được kết quả tương quan phù hợp với những nghiên cứu trước đó: tốc độ tăng trưởng GDP có mối tương quan âm với NPL, trong khi đó tỷ lệ thất nghiệp và tỷ lệ lãi suất thực lại có mối tương quan dương với tỷ lệ nợ xấu.
Ahlem Selma, Messai và Fathi Jouini (2013) áp dụng phương pháp dữ liệu bảng để phát hiện các yếu tố quyết định nợ xấu với số liệu của 85 ngân hàng tại 3 quốc gia là Ý, Hy Lạp và Tây Ban Nha từ năm 2004 đến 2008. Kết quả là nợ xấu có mối quan hệ ngược chiều với tốc độ tăng trưởng GDP và khả năng sinh lời của tài sản ngân hàng, có mối quan hệ cùng chiều với tỷ lệ thất nghiệp, và lãi suất thực.
2.4. Kết luận chương 2
Trong chương 2, luận văn đã trình bày tổng quan về tín dụng ngân hàng và rủi ro tín dụng. Trong thực tế, các NHTM sử dụng nhiều chỉ tiêu quan trọng để đánh giá rủi ro tín dụng, chứng tỏ được mối quan tâm đặc biệt của các nhà lãnh đạo ngân hàng về loại rủi ro này. Từ đó thấy được, rủi ro tín dụng có ảnh hưởng rất quan trọng đến hoạt động của ngân hàng và nền kinh tế, một phần cũng bởi vì nguyên nhân làm phát sinh RRTD có phạm vi khá rộng và đa dạng trong khi hậu quả của nó để lại cũng tác động sâu rộng đến hầu hết các đối tượng trong nền kinh tế.
Ngoài ra, luận văn cũng đã lược khảo một số nghiên cứu thực nghiệm về các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng trên thế giới. Các nghiên cứu đã chỉ ra được mối tương quan giữa các nhân tố như tăng trưởng tín dụng, quy mô ngân hàng, dự phòng RRTD, tăng trưởng GDP, lạm phát, thất nghiệp với rủi ro tín dụng. Các nghiên cứu này sẽ là cơ sở để luận văn phân tích thực trạng rủi ro tín dụng ở chương 3 và xây dựng giả thuyết nghiên cứu ở chương 4.
CHƯƠNG 3. THỰC TRẠNG RỦI RO TÍN DỤNG VÀ CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN RỦI RO TÍN DỤNG TẠI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
Trong chương này, luận văn sẽ trình bày hoạt động tín dụng ngân hàng và tình hình rủi ro tín dụng tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2006-2014 đồng thời phân tích thực trạng mối tương quan giữa tăng trưởng tín dụng, quy mô ngân hàng, dự phòng RRTD, các yếu tố kinh tế vĩ mô và rủi ro tín dụng.
3.1. Đánh giá rủi ro tín dụng tại các ngân hàng thương mại Việt Nam
Bảng 3.1. Tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá RRTD tại các NHTM Việt Nam giai đoạn 2006 – 2014
2006 | 2007 | 2008 | 2009 | 2010 | 2011 | 2012 | 2013 | 2014 | |
Tỷ lệ nợ xấu (%) | 3.0 | 2.0 | 3.5 | 2.2 | 2.6 | 3.4 | 4.08 | 3.61 | 3.25 |
Tăng trưởng TD (%) | 25.44 | 53.89 | 25.43 | 39.57 | 27.70 | 13.00 | 8.94 | 12.51 | 12.62 |
Dự phòng RRTD (%) | 0.83 | 0.60 | 1.18 | 1.01 | 1.17 | 1.30 | 1.70 | 1.53 | 1.48 |
∆Thu nhập lãi cận biên (%) | - | -0.26 | +0.11 | -0.27 | +0.04 | +0.06 | +0.37 | -0.2 | +0.18 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam - 1
- Các yếu tố ảnh hưởng đến rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại Việt Nam - 2
- Nguyên Nhân Và Hậu Quả Của Rủi Ro Tín Dụng Ngân Hàng
- Tác Động Của Các Yếu Tố Đến Rủi Ro Tín Dụng Tại Ngân Hàng Thương Mại Việt Nam
- Mối Tương Quan Giữa Lạm Phát Với Rủi Ro Tín Dụng
- Tổng Hợp Các Yếu Tố Nghiên Cứu
Xem toàn bộ 111 trang tài liệu này.
(Nguồn: BCTN Ngân hàng nhà nước Việt Nam giai đoạn 2006-2014)
3.1.1. Nợ xấu
Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đến nay, nền kinh tế nước ta đã chịu tác động tiêu cực và kinh tế vĩ mô có nhiều yếu tố không thuận lợi. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn dẫn đến khả năng kiệt quệ trong việc trả nợ ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu năm 2008 tăng là do phát sinh nợ xấu từ tín dụng bất động