Bước 1: Tổng quan lý thuyết
Nghiên cứu lý thuyết được áp dụng nhằm hệ thống và tìm ra những khoảng trống lý thuyết có liên quan đến MQHHT của CTLH với các nhà cung cấp trong CCƯDL đồng thời phát hiện các yếu tố ảnh hưởng đến MQHHT này. Trong đó, các nhóm yếu tố được sắp xếp và lý giải một cách hợp lý và khoa học nhằm phù hợp với tính chất, đặc điểm của các CTLH nói chung cũng như các CTLH trên địa bàn Hà Nội nói riêng. Việc phân nhóm các yếu tố ảnh hưởng (các biến độc lập) đến MQHHT của CTLH với các nhà cung cấp trong CCƯDL (biến phụ thuộc), nhằm đánh giá tác động tổng hợp của từng yếu tố đến MQHHT này từ đó hình thành nên mô hình nghiên cứu lý thuyết.
Bước 2: Xây dựng thang đo nháp
Thang đo nháp được xây dựng dựa trên tổng quan lý thuyết về MQHHT của CTLH với các nhà cung cấp trong CCƯDL đồng thời phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến các MQHHT này và cách đo lường các yếu tố dựa trên các nghiên cứu tổng quan trên thế giới và ở Việt Nam. Sau khi tiến hành phỏng vấn sâu và có sự điều chỉnh so với thang đo nháp, bảng hỏi chính thức được hình thành.
Bước 3: Nghiên cứu sơ bộ
Nghiên cứu sơ bộ được thực hiện thông qua nghiên cứu định tính. Dựa vào mô hình nghiên cứu đề xuất cũng như mục tiêu nghiên cứu, thang đo của các yếu tố được xác định dựa vào tổng quan các công trình nghiên cứu trong và ngoài nước. Để phù hợp hơn với bối cảnh nghiên cứu tại Việt Nam cũng như phù hợp với tính chất, đặc điểm của các CTLH trên địa bàn Hà Nội, bảng hỏi định tính (phỏng vấn sâu) được xây dựng để tiến hành phỏng vấn 8 người, trong đó có 2 chuyên gia và 6 nhà quản lý các CTLH trên địa bàn Hà Nội. Bảng hỏi phỏng vấn sâu đề cập đến 2 nội dung cơ bản: thứ nhất là thông tin cá nhân của người được hỏi, thứ hai là các thông tin về các yếu tố ảnh hưởng đến MQHHT của CTLH với các nhà cung cấp trong CCƯDL. Việc yêu cầu lặp lại các yếu tố có tính ảnh hưởng quan trọng và quyết định đến MQHHT này sẽ được khẳng định lại lần nữa nhằm đánh giá được mức độ quan trọng của từng yếu tố. Kết quả nghiên cứu định tính (phỏng vấn sâu) giúp bổ sung thêm những thang đo còn thiếu hoặc bỏ bớt đi những thang đo không phù hợp với bối cảnh nghiên cứu.
Bước 4: Nghiên cứu chính thức
Nghiên cứu chính thức được thực hiện thông qua phương pháp nghiên cứu định lượng. Mục đích của nghiên cứu định lượng nhằm kiểm định các giả thuyết nghiên cứu
đã được đưa ra cũng như kiểm tra sự phù hợp của mô hình nghiên cứu. Các bước cần kiểm định sẽ được thực hiện như sau:
(1) Kiểm định độ tin cậy của thang đo
Phương pháp đánh giá độ tin cậy của thang đo cho phép kiểm tra những câu hỏi nào thực sự đóng góp cho việc đo lường từng tiêu chí được sử dụng trong mô hình nghiên cứu. Những tiêu chí có hệ số Cronbach Alpha từ 0.8 trở lên được coi là đánh giá tốt (đạt độ tin cậy). Nếu nghiên cứu được thực hiện trong bối cảnh mới thì hệ số Cronbach Alpha
≥ 0.6 vẫn được chấp nhận (Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008).
Hệ số tin cậy của thang đo (CA) được qui định như sau:
- Thang đo cho các biến sẽ không thỏa mãn nếu CA < 0,6.
- Thang đo đủ độ tin cậy để tiến hành nghiên cứu nếu 0,6 < CA < 0,7.
- Thang đo đạt chuẩn cho nghiên cứu nếu 0,7 < CA < 0,8.
- Thang đo rất tốt nếu 0,8 < CA < 0,95.
- Thang đo ảo do có hiện tượng trùng biến hoặc do mẫu giả nếu CA > 0,95.
Theo Hair và cộng sự (1998), “nếu hệ số tương quan biến tổng < 0,3 thì sẽ bị loại khỏi thang đo”.
(2) Phân tích nhân tố khám phá (Exploratory Factor Analysis – EFA)
Mục tiêu đầu tiên của phân tích EFA là loại bỏ những thang đo không có ý nghĩa hoặc không có mức độ tương quan biến tổng cao. Hơn nữa, phân tích này còn giúp nhóm gọn các biến quan sát có cùng xu hướng thành một tập biến (hay nhân tố) (Hair và cộng sự, 1998).
Trước khi tiến hành phân tích EFA, tác giả cần kiểm định hệ số KMO để kiểm tra xem phân tích nhân tố có thích hợp không. “Nếu 0.5 <KMO<1 và P_value < 0.05 thì phân tích nhân tố hoàn toàn phù hợp (Hoàng Trọng & Chu Nguyễn Mộng Ngọc, 2008)”. Hơn nữa, “tổng phương sai trích >= 50%” (Gerbing và Anderson, 1988). Ngoài ra, “hệ số tải nhân tố Factor loading >= 0.5 để đảm bảo mức ý nghĩa của EFA (Hair và cộng sự, 1998)”. Và tại mỗi item, chênh lệch giữa hệ số tải lớn nhất và bất kỳ phải >= 0,3. Bước này giúp xác định số lượng các nhân tố chính ảnh hưởng tới MQHHT của CTLH với các nhà cung cấp theo quan điểm đánh giá của các CTLH.
(3) Phân tích nhân tố khẳng định (Confirmatory Factor Analysis – CFA)
Phân tích CFA nhằm kiểm định sự phù hợp của mô hình nghiên cứu, thông qua
các chỉ tiêu: CFI, GFI và TLI ≥ 0.9 (Bentler & Bonett, 1980); CMIN/df ≤ 2; và
RMSEA ≤ 0,08. “Phương pháp này được dùng để khẳng định lại tính đơn biến, đa biến, giá trị hội tụ và phân biệt của bộ thang đo đánh giá MQHHT của CTLH với các nhà cung cấp (Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2009)”.
(4) Phân tích mô hình cấu trúc tuyến tính SEM nhằm kiểm định các giả thuyết và sự phù hợp của mô hình nghiên cứu. “Phân tích SEM cho phép kết hợp các khái niệm tiềm ẩn với đo lường của chúng và có thể xem xét các đo lường độc lập hay kết hợp chung với mô hình lý thuyết cùng một lúc (Nguyễn Đình Thọ và Nguyễn Thị Mai Trang, 2009)”.
3.2. Nghiên cứu định lượng
3.2.1. Quy trình xây dựng bảng hỏi
- Dựa trên tổng quan lý thuyết, tác giả xác định nội dung các khái niệm của các yếu tố và cách thức đo lường các yếu tố đó trong mô hình nghiên cứu. Đối với những biến mới đưa vào mô hình chưa có thang đo sẵn thì phải dựa trên tổng quan lý thuyết để xác định nội dung của các khái niệm, trên cơ sở đó xây dựng các biến quan sát phù hợp.
- Xây dựng bản tiếng Việt của bảng hỏi bằng cách dịch thuật các thang đo từ Tiếng Anh sang Tiếng Việt. Sau đó, tiến hành dịch lại bản Tiếng Việt sang Tiếng Anh để so sánh và chỉnh sửa bản Tiếng Việt để đảm bảo việc chuyển đổi ngôn ngữ là chính xác, rõ ràng, mạch lạc và không làm thay đổi đáng kể ý nghĩa của thang đo.
- Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua phỏng vấn sâu 8 đối tượng là các chuyên gia và các nhà quản lý CTLH nhằm chuẩn hóa các thuật ngữ, điều chỉnh và bổ sung các biến quan sát trong thang đo cho phù hợp với bối cảnh và điều kiện tại Việt Nam, cụ thể là các CTLH trên địa bàn Hà Nội. Đồng thời, đối với các thang đo mới được xây dựng, trên cơ sở các biến quan sát được tập hợp từ nghiên cứu tổng quan, tác giả tiến hành phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực kinh doanh dịch vụ du lịch để giúp loại bỏ bớt các biến quan sát không phù hợp và lựa chọn được các biến quan sát đo lường chính xác khái niệm mới đưa vào.
- Sau khi tiến hành hiệu chỉnh các thang đo đồng thời loại bỏ các nội dung không phù hợp, và chuẩn hóa các từ ngữ sử dụng trong các thang đo, tác giả hoàn chỉnh bảng hỏi chính thức để tiến hành nghiên cứu định lượng. Nội dung của bảng hỏi bao gồm 3 phần chính:
+ Phần giới thiệu: bao gồm phần giới thiệu mục đích, ý nghĩa của nghiên cứu và lời mời các đối tượng tham gia trả lời cuộc điều tra nghiên cứu.
+ Phần nội dung chính: bao gồm các câu được triển khai, thiết kế theo mô hình và các thang đo đã được nghiên cứu. Người được hỏi sẽ đánh dấu vào các câu trả lời phù hợp nhất với mức độ ý kiến của họ cho những phát biểu đó. Nội dung chính của các câu hỏi có liên quan tới các yếu tố ảnh hưởng đến MQHHT của CTLH với các nhà cung cấp trong CCƯDL.
+ Phần thông tin thống kê: người được hỏi sẽ cung cấp các thông tin cá nhân để giúp cho việc thống kê, mô tả và giải thích rõ thêm cho những thông tin chính nếu cần thiết.
Tất cả các biến quan sát trong mô hình nghiên cứu đều sử dụng thang đo Likert 5 bậc với lựa chọn số 1 là “hoàn toàn không đồng ý” với phát biểu và lựa chọn số 5 là “rất đồng ý” với phát biểu.
3.2.2. Mẫu nghiên cứu
Mẫu nghiên cứu định tính (phỏng vấn sâu) được lựa chọn bao gồm 8 người (2 chuyên gia và 6 nhà quản lý của các CTLH trên địa bàn Hà Nội, họ có những hiểu biết nhất định về MQHHT của CTLH với các nhà cung cấp trong chuỗi cung ứng du lịch và họ cũng đưa ra được những nhận định về các yếu tố ảnh hưởng đến MQHHT của công ty họ với các nhà cung cấp. Việc lựa chọn ngẫu nhiên không thuận tiện này nhằm mục đích khám phá tìm hiểu về các yếu tố ảnh hưởng đến MQHHT của CTLH với các nhà cung cấp trong CCƯDL.
Nhằm đảm bảo tính đại diện của mẫu, mẫu nghiên cứu chính thức áp dụng phương pháp chọn mẫu xác suất, trong đó có sự kết hợp giữa phương pháp chọn mẫu phân tầng và phương pháp ngẫu nhiên thuận tiện, cụ thể là phân theo loại hình doanh nghiệp kinh doanh lữ hành ở Hà Nội. Theo số liệu của Tổng cục Du lịch năm 2016, các công ty kinh doanh lữ hành trên địa bàn Hà Nội được phân chia theo loại hình doanh nghiệp bao gồm: Công ty Trách nhiệm hữu hạn, Công ty Cổ phần, Công ty liên doanh, Công ty hợp danh, Doanh nghiệp tư nhân, được xác định là 5 nhóm khi phân tầng. Sau đó, ở mỗi nhóm tác giả sẽ sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên thuận tiện để thực hiện điều tra khảo sát chính thức.
Việc lựa chọn 450 CTLH trên địa bàn Hà Nội làm đối tượng điều tra nghiên cứu chính thức bởi vì đây là địa bàn tập trung hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh lữ hành quốc tế của Việt Nam trên toàn quốc với các chi nhánh và văn phòng đại diện ở khắp các tỉnh thành.
Về kích thước mẫu:
- Theo Hair và cộng sự (2006), “kích thước mẫu tối thiểu là 50 nếu sử dụng phân tích EFA, nếu kích thước mẫu tăng lên 100 sẽ tốt hơn nhiều và tỷ lệ số quan sát/số biến đo lường là 5/1, nói cách khác trong mỗi biến đo lường cần tối thiểu 5 quan sát”.
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp phân tích EFA, CFA và SEM, mô hình nghiên cứu có 56 biến đo lường và 9 khái niệm nghiên cứu, bao gồm 12 chỉ báo đo lường yếu tố MQHHT của CTLH với các nhà cung cấp trong CCƯDL; 08 chỉ báo đo lường yếu tố niềm tin; 8 chỉ báo đo lường yếu tố sự cam kết; 6 chỉ báo đo lường yếu tố mối quan hệ cá nhân; 6 chỉ báo đo lường yếu tố ứng dụng CNTT trong chuỗi, 5 chỉ báo đo lường yếu tố chính sách định hướng khách hàng; 5 chỉ báo đo lường yếu tố văn hóa hợp tác trong chuỗi; 3 chỉ báo đo lường yếu tố tính chuyên biệt của tài sản và 3 chỉ báo đo lường yếu tố sự không chắc chắn về hành vi. Vì vậy, nếu tính theo nguyên tắc 5 mẫu/biến đo lường thì cỡ mẫu tối thiếu là 280 quan sát. Để phù hợp với nghiên cứu và chọn được mẫu có tính đại diện cao nhất cho tổng thể, kích thước mẫu được xác định là 450 CTLH trên địa bàn Hà Nội.
Dựa vào kết quả tổng quan lý thuyết các công trình nghiên cứu và xây dựng mô hình nghiên cứu đề xuất, 09 yếu tố được xác định trong đó có 08 yếu tố hay biến độc lập, 01 biến phụ thuộc. Thang đo cụ thể cho từng biến được xây dựng trên cơ sở các kết quả của các nghiên cứu cùng lĩnh vực được đăng tải trên các tạp chí khoa học có uy tín trong nước cũng như trên thế giới.
3.2.3. Xây dựng thang đo
3.2.3.1. Thang đo mối quan hệ hợp tác của công ty lữ hành với các nhà cung cấp trong chuỗi cung ứng du lịch (ký hiệu SC)
Thang đo MQHHT của CTLH với các nhà cung cấp trong CCƯDL được hiểu là hai hoặc nhiều công ty độc lập làm việc cùng nhau để lập kế hoạch và liên kết các quy trình hoạt động nhằm tạo ra giá trị cho khách hàng cuối cùng và các đối tác liên quan với sự thành công đạt được lớn hơn nhiều so với hoạt động kinh doanh độc lập, riêng lẻ (Hovarth, (2001); Simatupang và Sridharan, (2002)). Thang đo này được cấu thành bởi 3 thành phần là sự chia sẻ thông tin, đồng bộ hóa quyết định và tích hợp hệ thống khuyến thưởng. Các phát biểu về yếu tố MQHHT của CTLH với các nhà cung cấp trong chuỗi cung ứng du lịch dựa trên thang đo Likert 5 điểm từ 1= “hoàn toàn không đồng ý” đến 5= “rất đồng ý”. Thang đo này được phát triển dựa trên nghiên cứu của Simatupang và Sridharan (2005); Nyaga và cộng sự (2010); Pairach Piboonrungroj (2012).
Thang đo | Nguồn | |
Sự chia sẻ thông tin | ||
SC1 | Công ty chúng tôi và các nhà cung cấp trong chuỗi cung ứng thông báo trước cho nhau về các nhu cầu thay đổi. | Simatupang và Sridharan (2005), Nyaga và cộng sự (2010) |
SC2 | Công ty chúng tôi và các nhà cung cấp mong muốn các thông tin hữu ích sẽ được chia sẻ. | |
SC3 | Công ty chúng tôi và các nhà cung cấp hy vọng sẽ thông báo cho nhau về bất kỳ sự thay đổi quan trọng nào. | |
Đồng bộ hóa quyết định | ||
SC4 | Công ty chúng tôi và các nhà cung cấp cùng lên kế hoạch về các sự kiện khuyến mãi. | Simatupang và Sridharan (2005), Cao và cộng sự, (2011) |
SC5 | Công ty chúng tôi và các nhà cung cấp cùng triển khai các dự báo về nhu cầu.. | |
SC6 | Công ty chúng tôi và các nhà cung cấp cùng lên kế hoạch phân loại sản phẩm. | |
SC7 | Công ty chúng tôi và các nhà cung cấp cùng nhau tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề. | |
Tích hợp hệ thống khuyến thưởng | ||
SC8 | Công ty chúng tôi và các nhà cung cấp trong chuỗi cung ứng cùng phát triển hệ thống đánh giá và công khai/công bố hiệu quả hoạt động kinh doanh (ví dụ chỉ số hiệu suất hoạt động, phân phối sản phẩm / dịch vụ..). | Simatupang và Sridharan (2005), Cao và cộng sự, (2011) |
SC9 | Công ty chúng tôi và các nhà cung cấp cùng nhau chia sẻ các lợi ích và những rủi ro có thể xảy ra. | |
SC10 | Công ty chúng tôi và các nhà cung cấp chia sẻ phần tiết kiệm thu được từ việc giảm thiểu chi phí không cần thiết. | |
SC11 | Các ưu đãi, khuyến khích dành cho công ty chúng tôi tương xứng với các khoản đầu tư và những rủi ro. |
Có thể bạn quan tâm!
- Các yếu tố ảnh hưởng đến mối quan hệ hợp tác của công ty lữ hành với các nhà cung cấp trong chuỗi cung ứng du lịch - 7
- Ứng Dụng Công Nghệ Thông Tin Trong Chuỗi
- Ảnh Hưởng Của Tính Chuyên Biệt Tài Sản Đến Mối Quan Hệ Hợp Tác Của Công Ty Lữ Hành Với Các Nhà Cung Cấp Trong Chuỗi Cung Ứng Du Lịch
- Thang Đo Mối Quan Hệ Cá Nhân Của Công Ty Lữ Hành Với Các Nhà Cung Cấp (Ký Hiệu Pr)
- Thống Kê Mô Tả Mẫu Nghiên Cứu Theo Biến Kiểm Soát
- Số Lượng Các Công Ty Kinh Doanh Lữ Hành Nội Địa Theo Loại Hình Doanh Nghiệp
Xem toàn bộ 217 trang tài liệu này.
3.2.3.2. Thang đo tính chuyên biệt của tài sản (ký hiệu AS)
Thang đo tính chuyên biệt của tài sản được hiểu là các khoản đầu tư lâu dài vào vốn vật chất, vốn con người nhằm hỗ trợ cho các giao dịch đặc biệt cũng như duy trì các MQHHT cụ thể của CTLH với các nhà cung cấp. Thang đo tính chuyên biệt tài sản được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Kwon và Suh (2004). Các phát biểu về yếu tố tính đặc thù tài sản dựa trên thang đo Likert 5 điểm từ 1= “hoàn toàn không đồng ý” đến 5= “rất đồng ý”.
Thang đo | Nguồn | |
AS1 | Các nhà cung cấp đã đầu tư đáng kể vào các nguồn lực (thời gian và tiền bạc) để phát triển mối quan hệ với công ty chúng tôi. | Kwon và Suh (2004), |
AS2 | Quy trình vận hành của các nhà cung cấp đã được điều chỉnh nhằm đáp ứng các yêu cầu của công ty chúng tôi. | |
AS3 | Để thực hiện các cam kết với các nhà cung cấp, công ty chúng tôi đầu tư đáng kể về thời gian và tiền bạc trong quá trình đào tạo nhân viên. |
3.2.3.3. Thang đo sự không chắc chắn về hành vi (ký hiệu BU)
Thang đo sự không chắc chắn về hành vi được hiểu là sự bất khả thi trong việc dự đoán những thay đổi về hành vi của đối tác ở môi trường bên ngoài. Sự không chắc chắn về hành vi làm gia tăng những khó khăn liên quan đến hoạt động giám sát các đối tác tham gia giao dịch (Wiliamson, 1985). Các phát biểu về yếu tố sự không chắc chắn về hành vi dựa trên thang đo Likert 5 điểm từ 1= “hoàn toàn không đồng ý” đến 5= “rất đồng ý”. Thang đo này được phát triển dựa trên nghiên cứu của Kwon và Suh (2004).
Thang đo | Nguồn | |
BU1 | Trước khi thiết lập mối quan hệ với các nhà cung cấp, công ty chúng tôi gặp khó khăn trong việc kiểm soát hiệu quả hoạt động kinh doanh của họ. | Kwon và Suh (2004) |
BU2 | Trước khi thiết lập mối quan hệ với các nhà cung cấp, công ty chúng tôi không thể biết trước liệu họ có thể thích nghi một cách nhanh chóng nếu như chúng tôi thay đổi các chi tiết kỹ thuật trong thời gian ngắn. | |
BU3 | Trước khi thiết lập mối quan hệ với các nhà cung cấp, công ty chúng tôi không thể dự đoán được hiệu quả hoạt động kinh doanh của họ trong tương lai. |
3.2.3.4. Thang đo niềm tin của công ty lữ hành với các nhà cung cấp (ký hiệu TR)
Niềm tin được đề cập là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến MQHHT của CTLH với các nhà cung cấp trong CCƯDL. Hơn nữa, nó còn là yếu tố quyết định đến sự cam kết cũng như sự chia sẻ thông tin giữa các nhà cung cấp (Anderson và Narus, 1990; Ganesan, 1994; Pavlou, 2002; Zaheer và cộng sự, 1998; Morgan và Hunt, 1994; Cao và cộng sự, 2011). Các phát biểu về yếu tố niềm tin của CTLH với các nhà cung cấp dựa trên thang đo Likert 5 điểm từ 1= “hoàn toàn không đồng ý” đến 5= “rất đồng ý”. Thang đo này được phát triển dựa trên nghiên cứu của Morgan và Hunt, (1994); Cao và cộng sự, (2011).
Thang đo | Nguồn | |
TR1 | Các nhà cung cấp trong chuỗi cung ứng luôn công khai và trung thực trong cách đối xử/cư xử/xử sự với công ty chúng tôi. | Morgan và Hunt, (1994); Cao và cộng sự, (2011). |
TR2 | Các nhà cung cấp đáng tin cậy. | |
TR3 | Các nhà cung cấp luôn giữ bí mật các thông tin mà họ nhận được từ công ty chúng tôi. | |
TR4 | Các nhà cung cấp trong chuỗi cung ứng luôn giữ lời hứa với những gì mà họ làm với công ty chúng tôi. | |
TR5 | Các nhà cung cấp luôn cung cấp các thông tin chính xác. | |
TR6 | Các nhà cung cấp sẵn sàng giúp đỡ và hỗ trợ cho công ty chúng tôi trong bất kỳ trường hợp nào. | |
TR7 | Các nhà cung cấp luôn quan tâm đến lợi ích của công ty chúng tôi khi đưa ra các quyết định quan trọng. | |
TR8 | Công ty chúng tôi luôn tin tưởng các nhà cung cấp trong chuỗi cung ứng với mục đích để cân nhắc xem những hành động của đối tác sẽ ảnh hưởng như thế nào đến chúng tôi. |
3.2.3.5. Thang đo sự cam kết của công ty lữ hành với các nhà cung cấp (ký hiệu CO)
Thang đo sự cam kết của CTLH với các nhà cung cấp thể hiện sự tự nguyện của mỗi bên tham gia với mục đích đầu tư các nguồn lực nhằm xây dựng một mối quan hệ bền vững. Thang đo này được xây dựng dựa trên nghiên cứu của Morgan & Hunt, (1994) và Torres, M. A. S. (2011). Các phát biểu về yếu tố sự cam kết của CTLH với các nhà cung cấp dựa trên thang đo Likert 5 điểm từ 1= “hoàn toàn không đồng ý” đến 5= “rất đồng ý”.