gặp phải vấn đề mà FTA hầu như không thể can thiệp hay làm thay đổi, đó chính là các yêu cầu về rào cản kỹ thuật thương mại (TBT) (ví dụ các tiêu chuẩn VSATTP, các quy định về dán nhãn, ghi nhãn hàng hóa) (VCCI, 2019). Đây là thách thức rất lớn ngăn cản sự mở rộng thị trường xuất khẩu rau quả của doanh nghiệp Việt Nam.
Để có được sức cạnh tranh quốc tế, các doanh nghiệp XKRQ Việt Nam phải sử dụng nguồn lực, năng lực một cách hiệu quả, đồng thời kết hợp với chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi phù hợp, để nắm bắt cơ hội và vượt qua khó khăn. Mức độ thành công của doanh nghiệp xuất khẩu được đo lường bởi kết quả xuất khẩu. Vì vậy, quan tâm đến kết quả xuất khẩu là ưu tiên hàng đầu của doanh nghiệp XKRQ Việt Nam khi tham gia thương mại toàn cầu. Tuy nhiên, trong khi XKRQ tăng trưởng mạnh và có nhiều đóng góp cho nền kinh tế trong thời gian qua, các yếu tố quyết định kết quả xuất khẩu lại rất ít được nghiên cứu. Do đó, xuất phát từ thực tiễn cần phải xây dựng và kiểm tra kết quả xuất khẩu của các doanh nghiệp XKRQ Việt Nam chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố nào. Những phát hiện nghiên cứu sẽ góp phần cung cấp cái nhìn sâu sắc hữu ích cho các doanh nghiệp XKRQ về các vấn đề phải đối mặt với sự không chắc chắn từ môi trường bên ngoài và năng lực, nguồn lực tổ chức nào sẽ phát triển để tối ưu hóa kết quả xuất khẩu.
1.2 Nhận dạng vấn đề nghiên cứu
Trong quá trình quốc tế hóa, doanh nghiệp có thể đạt được lợi thế cạnh tranh (LTCT) tại các TTXK (Navarro và cộng sự, 2014), vì thế xuất khẩu trở thành chìa khóa đánh giá sự thành công. Xuất khẩu đem đến nhiều giá trị cho doanh nghiệp, tạo cơ hội trở nên ít phụ thuộc hơn vào nội địa. Hoạt động xuất khẩu hiệu quả hỗ trợ doanh nghiệp gia tăng mức độ hội nhập khu vực và thế giới cũng như tự do hóa thương mại (Sousa và cộng sự, 2008). Xuất khẩu cung cấp cho doanh nghiệp cơ hội tăng trưởng vì sự gia tăng xuất khẩu giúp mở rộng thị trường, khi cạnh tranh thị trường trong nước (TTTN) trì trệ (Katsikeas và cộng sự, 2006). Doanh nghiệp cũng có thể sử dụng kinh nghiệm quốc tế để cải thiện năng lực cạnh tranh tại TTTN, bởi các năng lực quản lý tiếp nhận được từ TTXK (Griffith & Hoppner, 2013). Tóm lại, xuất khẩu chiếm vai trò quan trọng trong doanh nghiệp, là một phương tiện để giảm
chi phí sản xuất, tiếp cận thị trường mới và tích lũy kinh nghiệm; thu nhập từ xuất khẩu hỗ trợ doanh nghiệp tăng doanh số và năng suất để cải thiện lợi nhuận.
Kết quả xuất khẩu được định nghĩa là “Kết quả của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp tại TTXK, là sự thành công của xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ sang các quốc gia khác” (Shoham, 1996). Khi sự gia tăng cạnh tranh ở TTXK, doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển chịu sự chi phối vào việc hiểu rõ những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu (Monteiro và cộng sự, 2019; Chen và cộng sự, 2016). Phân tích các yếu tố quyết định kết quả xuất khẩu và làm thế nào các doanh nghiệp có thể tận dụng khả năng để gặt hái hiệu quả trong việc đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc tế (Tan & Sousa, 2015) là một hướng nghiên cứu quan trọng.
Các lý thuyết nền đã được sử dụng từ những nghiên cứu trước đây:
Các lý thuyết nền hình thành khung nghiên cứu của luận án bao gồm: (1) Lý thuyết quốc tế hóa, (2) lý thuyết dựa trên nguồn lực, (3) lý thuyết thể chế và (4) lý thuyết ngẫu nhiên. Cụ thể như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu rau quả của doanh nghiệp Việt Nam - 1
- Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu rau quả của doanh nghiệp Việt Nam - 2
- Kết Luận Và Hàm Ý Cho Nhà Quản Trị
- Các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu rau quả của doanh nghiệp Việt Nam - 5
- Thống Kê Các Phương Pháp Đo Lường Kết Quả Xuất Khẩu
Xem toàn bộ 260 trang tài liệu này.
Theo lý thuyết quốc tế hóa (Internationalization Theory) đề xuất doanh nghiệp xem xét một số yếu tố khi đánh giá lợi ích và chi phí liên quan đến quá trình quốc tế hóa (Porter, 1990; Reid, 1981) tác động đến kết quả xuất khẩu. Khi doanh nghiệp gia tăng mức độ quốc tế hoá, dẫn đến cam kết xuất khẩu, kinh nghiệm quốc tế tăng lên, xóa bỏ các rào cản xuất khẩu, công việc phát triển xuất khẩu sẽ trở nên dễ quản lý hơn, từ đó cải thiện và gia tăng kết quả xuất khẩu (Leonidou & Katsikeas, 1996; Kahiya, 2018). Hơn nữa, vai trò quan trọng của năng lực công nghệ trong tiến trình quốc tế hoá đã được khẳng định (Jin & Cho, 2018). Cách tiếp cận này được xem xét linh hoạt hơn, khi thông qua quá trình quốc tế hóa, xem xét cả khía cạnh các yếu tố bên trong và bên ngoài doanh nghiệp sẽ ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu.
Theo lý thuyết dựa trên nguồn lực (Resources-based view RBV), cơ sở nguồn lực quan trọng trong môi trường kinh doanh khác biệt chính là những yếu tố nội bộ, vì chúng là một cơ sở ổn định để xây dựng chiến lược và quyết định kết quả hoạt động (Grant, 1996). Những lợi thế nguồn lực nội bộ tạo ra LTCT, khiến các đối thủ
cùng ngành khó có thể vượt qua (Wernerfelt, 1984). Quan điểm RBV cho rằng các yếu tố quyết định kết quả xuất khẩu là các nguồn lực và năng lực tổ chức nội bộ vượt trội lẫn khó bắt chước hoặc sao chép (Morgan và cộng sự, 2012). Kết quả vượt trội bền vững và LTCT của bất kỳ doanh nghiệp nào được xem như kết quả thuộc về sự lựa chọn quản lý, tích lũy và triển khai nguồn lực chọn lọc, các yếu tố chiến lược ngành và yếu tố thị trường không hoàn hảo (Oliver, 1997). RBV giải thích kiến thức và năng lực tổ chức được tận dụng bởi doanh nghiệp, trong bối cảnh các nền văn hóa khác nhau (Grant, 1996; Penrose, 1959). Doanh nghiệp củng cố kết quả xuất khẩu bằng cách xây dựng chiến lược khai thác điểm mạnh và tránh điểm yếu bên trong nguồn lực và năng lực (Leonidou và cộng sự, 2011).
Lý thuyết thể chế (Institutional-based view) luận giải kết quả xuất khẩu chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố môi trường bên ngoài (Lu và cộng sự, 2010; Peng và cộng sự, 2008). Lý thuyết thể chế chứng minh theo thời gian, các quy trình và cấu trúc của tổ chức trở thành thể chế hóa và xem doanh nghiệp hoạt động trong khuôn khổ các giá trị xã hội, giả định và chuẩn mực cấu thành hành vi kinh tế chấp nhận, vì vậy tác động đến kết quả xuất khẩu (Oliver, 1997). Hơn nữa, lý thuyết thể chế đề cao vai trò và gợi ý rằng các lực lượng thể chế định hình các quyết định chiến lược và kết quả (Dacin và cộng sự, 2002). Vấn đề này hoàn toàn phù hợp với các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu bị tác động của những lực lượng thể chế khác nhau ở TTTN và TTXK (Peng và cộng sự, 2008).
Theo lý thuyết ngẫu nhiên (Contingency Theory), minh hoạ các yếu tố tác động đến chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi và kết quả xuất khẩu, phụ thuộc vào bối cảnh cụ thể (Sousa & Bradley, 2008). Xuất khẩu là quá trình phản ứng chiến lược đối với sự tương tác của các yếu tố nội bộ và bên ngoài doanh nghiệp (Robertson & Chetty, 2000). Lý thuyết ngẫu nhiên cho rằng thành công xuất khẩu là kết quả của sự phối ngẫu của một số yếu tố phù hợp. Trong bối cảnh này, sự phù hợp được xem là mức độ tương thích của cấu trúc, các thành phần chiến lược và đặc điểm môi trường (Fuchs & Köstner, 2016). Một tiền đề cơ bản làm cơ sở là không có chiến lược nào có thể hiệu quả trong mọi bối cảnh. Do đó, các quyết định marketing toàn cầu khác
với các quyết định được thực hiện ở nước sở tại vì mỗi quốc gia có một môi trường duy nhất (Jain, 1989). Tóm lại, theo lý thuyết ngẫu nhiên phải xét đến vai trò yếu tố kết nối và sự phù hợp của chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi khi đề cập đến các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu.
Do vậy, các trường phái lý thuyết nêu trên có chung quan điểm giải thích ảnh hưởng của các nguồn lực nội bộ và bên ngoài ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu. Những trường phái lý thuyết không hề mâu thuẫn mà bổ sung lẫn nhau. Bốn lý thuyết trên được ứng dụng khi nghiên cứu thương mại quốc tế.
Các nghiên cứu ngoài nước về kết quả xuất khẩu:
Trong hơn 50 năm qua, một số lượng lớn các nghiên cứu đã được triển khai để tìm kiếm các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu doanh nghiệp (Chen và cộng sự, 2016; Sousa và cộng sự, 2008). Các nghiên cứu tổng kết (Bảng 4, Phụ lục 4) xác định có hai nhóm yếu tố nội bộ và các yếu tố bên ngoài tác động đến kết quả xuất khẩu (Chen và cộng sự, 2016; Leonidou & Katsikeas, 2010; Sousa và cộng sự, 2008).
Những yếu tố nội bộ bao gồm các phân nhóm: Chiến lược marketing xuất khẩu, đặc điểm và năng lực doanh nghiệp, đặc điểm quản lý (Chen và cộng sự, 2016). Chiến lược marketing xuất khẩu là yếu tố nội bộ dẫn đến tăng cường và hỗ trợ hoạt động xuất khẩu, dựa trên điều kiện thị trường để tạo ra sự phù hợp chiến lược trong TTXK (Morgan và cộng sự, 2012). Mức độ tác động đến kết quả xuất khẩu của chiến lược marketing xuất khẩu phụ thuộc vào các nguồn lực sẵn có để thực hiện chiến lược (Chen và cộng sự, 2016). Các nguồn lực nội bộ như: Đặc điểm và năng lực doanh nghiệp (Ví dụ: năng lực công nghệ), đặc điểm quản lý (Ví dụ: cam kết xuất khẩu, kinh nghiệm quốc tế) cho phép doanh nghiệp thực thi các chiến lược phát triển hoạt động kinh doanh xuất khẩu (Dhanaraj & Beamish, 2003).
Môi trường bên ngoài phân loại các yếu tố theo đặc điểm cấp ngành và cấp quốc gia. Các yếu tố bên ngoài đặt ra cả cơ hội và thách thức tác động lớn đến kết quả xuất khẩu doanh nghiệp. Như vậy, doanh nghiệp phải có thế mạnh phù hợp với cơ hội thị trường để đối mặt với các mối đe dọa, nhằm đảm bảo kết quả xuất khẩu tốt hơn. Trong đó, kết quả xuất khẩu có xu hướng được điều chỉnh theo yếu tố nổi bật là
sự khác biệt môi trường và cường độ cạnh tranh giữa TTTN và TTXK (Magnusson và cộng sự, 2013; O'Cass & Julian, 2003b) và một số yếu tố khác.
Tóm lại, lược sử nghiên cứu kết quả xuất khẩu cho thấy khá phân mảnh (Bảng 5, Phụ lục 4), do đó cản trở tiến bộ học thuật và thực tiễn trong lĩnh vực này (Chen và cộng sự, 2016). Việc thiếu một hệ thống lý thuyết toàn diện giải thích kết quả xuất khẩu gây khó khăn cho việc tích hợp các phát hiện từ các nghiên cứu khác nhau thành một khối kiến thức mạch lạc (Morgan và cộng sự, 2004). Kết quả thể hiện có nhiều yếu tố tác động đến kết quả xuất khẩu và có nhiều cách thức khác nhau trong việc xác định yếu tố, nhưng vẫn thiếu một khung lí thuyết thống nhất để hướng dẫn lựa chọn những yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu. Hơn nữa, các công trình tổng kết trên nhấn mạnh việc kiểm tra các giao thoa phức tạp giữa các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu và các hiệu ứng trung gian, điều tiết và kiểm soát. Phần lớn lược khảo những công trình tập trung ở các nước phát triển (Lages & Sousa, 2010; Griffith & Hoppner, 2013; Zeriti và cộng sự, 2014; Fuchs & Köstner, 2016; Monteiro và cộng sự, 2019) để lại khoảng trống nghiên cứu tại thị trường các nước đang phát triển ở Châu Á như Việt Nam. Ngoài ra, dưới góc độ ngành hàng (Navarro và cộng sự, 2010b; Magnusson và cộng sự, 2013; Navarro và cộng sự, 2014), các nghiên cứu chủ yếu phân tích đa ngành rất hiếm các nghiên cứu phân tích chuyên sâu về kết quả xuất khẩu ngành rau quả.
Một số hướng nghiên cứu điển hình ở lĩnh vực xuất khẩu rau quả tại Việt Nam:
Trong những năm gần đây, có những bài nghiên cứu trong nước về XKRQ Việt Nam (Nguyễn Thị Thanh Huyền, 2016; Võ Thị Phương Nhung và cộng sự, 2017; Nguyễn Hoàng Nam, 2020). Nguyễn Thị Thanh Huyền (2016) kết luận rằng Việt Nam phải có những thay đổi tích cực để sản phẩm rau quả có chỗ đứng khi cạnh tranh ngày một gay gắt. Việc xây dựng và định hướng giải pháp tái cơ cấu ngành rau quả theo hướng nâng cao giá trị gia tăng là nền tảng quan trọng trong điều hành chính sách xuất khẩu sản phẩm nông nghiệp. Do đó, để hỗ trợ ngành rau quả phát triển, cần thực hiện những cải cách bắt nguồn từ khâu cung ứng đến khâu xuất khẩu. Thêm nữa, Võ Thị Phương Nhung và cộng sự (2017) nhận định những thành tựu gia tăng kim
ngạch xuất khẩu giai đoạn 2011-2015 và đã chinh phục được thị trường các nước phát triển. Tuy nhiên, cơ cấu giữa các mặt hàng XKRQ qua các năm không có nhiều biến động, tập trung chủ yếu là mặt hàng rau quả tươi. Hơn nữa, ngành rau quả còn gặp một số khó khăn về đáp ứng tiêu chuẩn xuất khẩu và vấn đề ATVSTP. Tiếp theo, Nguyễn Hoàng Nam (2020) phân tích thực trạng XKRQ, cập nhật số liệu đến năm 2018, và nêu các cơ hội và thách thức cũng như đề xuất kiến nghị nâng cao kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành rau quả trong thời gian tới. Tóm lại, các nghiên cứu trong nước chủ yếu diễn giải thực trạng, triển vọng, và kiến nghị hỗ trợ XKRQ. Các nghiên cứu còn nặng về thực trạng và mang tính khái quát, chưa định lượng, trên thực tế còn thiếu những nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu mặt hàng nông sản cụ thể. Mô hình nghiên cứu về kết quả xuất khẩu chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố trong ngành XKRQ Việt Nam chưa được triển khai.
Yếu tố bối cảnh trong nghiên cứu:
Quan điểm ủng hộ vai trò của tình huống bối cảnh, cung cấp cách tiếp cận hiệu quả, nỗ lực doanh nghiệp để khám phá các yếu tố quyết định thành công xuất khẩu (Cavusgil & Zou, 1994; O’Cass & Julian, 2003a; Sousa & Bradley, 2008; Magnusson và cộng sự, 2013; Fuchs & Köstner, 2016; Jin & Cho, 2018). Công thức chung có giá trị toàn cầu cho sự thành công dường như không thể tìm thấy vì bản chất của vị trí kinh doanh và bối cảnh môi trường phải được xem xét. Kết quả nghiên cứu không nhất quán dẫn đến phỏng đoán sự phù hợp của chiến lược cụ thể phụ thuộc vào bối cảnh môi trường triển khai (Katsikeas và cộng sự, 2006; Hultman và cộng sự, 2011). Tiền đề lý thuyết cơ bản làm cơ sở là không có chiến lược nào có thể hiệu quả trong mọi bối cảnh, và do đó cần bổ sung vai trò trung gian của chiến lược khi xem xét kết quả xuất khẩu (Zeriti và cộng sự, 2014).
Chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi (EMS) là yếu tố nội bộ, vừa có vai trò trực tiếp ảnh hưởng, vừa là biến trung gian trong mô hình các yếu tố tác động đến kết quả xuất khẩu. Trong hơn hai thập kỷ, các nhà nghiên cứu đã thừa nhận tầm ảnh hưởng của EMS tác động tới kết quả xuất khẩu (Sousa & Lengler, 2009; Zeriti và cộng sự, 2014). Một số nghiên cứu báo cáo mối quan hệ tích cực có thể kể đến như
O’Cass & Julian (2003a), Navarro và cộng sự (2010b), Magnusson và cộng sự (2013), Navarro và cộng sự (2014), Fuchs & Köstner, (2016) một số khác là mối quan hệ tiêu cực như Chung (2009), Schilke và cộng sự (2009), và một số công trình xác định không có mối quan hệ giữa hai khái niệm là Kotabe (1990), Lages và cộng sự (2008b). Vì thế, mặc dù một số các nghiên cứu sử dụng EMS làm trung gian trong các mô hình khái niệm, nhưng không trực tiếp thừa nhận hoặc kiểm tra tác động trung gian trong nghiên cứu thực nghiệm. Sự thiếu sót này dẫn đến lý thuyết hóa và xu hướng thực nghiệm không đầy đủ trong kết quả của các giả thuyết thử nghiệm. Qua đó, có thể kết luận rằng sự liên kết giữa hai nhóm yếu tố nội bộ và bên ngoài ảnh hưởng tới kết quả xuất khẩu, dưới vai trò trung gian của EMS trên TTXK nên được xem xét.
Do đó, luận án đánh giá các yếu tố nội bộ và môi trường bên ngoài ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu thông qua vai trò trung gian của chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi, được tiếp cận theo quan điểm ngẫu nhiên, dọc theo chuỗi liên tục tiêu chuẩn – thích nghi hóa, tập trung vào mức độ thích nghi của bốn chiến lược thành phần (sản phẩm, giá cả, phân phối và truyền thông tiếp thị). Kết quả xuất khẩu không những chịu sự tác động trực tiếp từ các yếu tố ảnh hưởng, mà còn chịu tác động gián tiếp bởi sự phù hợp bối cảnh, cụ thể là sự phù hợp giữa chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi điều phối các yếu tố ảnh hưởng. Trong bối cảnh hiện nay, phương pháp tiếp cận ngẫu nhiên khi nghiên cứu kết quả xuất khẩu được phổ biến và ủng hộ trong các nghiên cứu thực nghiệm gần đây (O’Cass & Julian, 2003a; Sousa & Bradley, 2005; Powers & Loyka, 2010; Magnusson và cộng sự, 2013; Fuchs & Köstner, 2016; Jin & Cho, 2018).
Khoảng trống nghiên cứu và lý do thực hiện nghiên cứu tại Việt Nam:
Khoảng trống nghiên cứu: Sau khi tổng kết các hướng nghiên cứu, luận án đề xuất một số nhận định và chỉ ra khoảng trống nghiên cứu sau:
Thứ nhất, tổng kết công trình ngoài nước xác nhận rằng mô hình các yếu tố tác động đến kết quả xuất khẩu tồn tại các biến thể đa dạng (Bảng 4, 5, Phụ lục 4). Vấn đề này được lý giải bởi chính đối tượng của luồng nghiên cứu này là kết quả xuất khẩu. Các nền kinh tế, các nền văn hoá, các lĩnh vực ngành nghề khác nhau là những
bối cảnh lớn ảnh hưởng đáng kể đến khái niệm này. Một số các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu được triển khai rộng rãi ở các nghiên cứu trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Tuy nhiên, mặc dù được chú ý đáng kể, tài liệu về kết quả xuất khẩu còn hạn chế và không nhất quán.
Thứ hai, mối quan hệ giữa hai nhóm yếu tố nội bộ và bên ngoài tác động đến kết quả xuất khẩu có vai trò trung gian chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi vẫn chưa rõ ràng. Sự thiếu sót này dẫn đến lý thuyết hóa và xu hướng thực nghiệm không đầy đủ trong kết quả của các giả thuyết thử nghiệm. Qua đó, kết luận rằng quan hệ nhân quả giữa các yếu tố tác động và kết quả xuất khẩu là phức tạp, mối quan hệ giữa hai nhóm yếu tố nội bộ và bên ngoài tác động đến kết quả xuất khẩu có vai trò trung gian của chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi cần được tiếp tục nghiên cứu.
Thứ ba, hướng tiếp cận theo trường phái lý thuyết ngẫu nhiên hoặc kết hợp lý thuyết thể chế và ngẫu nhiên để giải thích sự hình thành nguồn lực hỗ trợ bên ngoài hoặc sự kết hợp giữa lý thuyết dựa vào nguồn lực và lý thuyết quốc tế hoá để phân tích sự hình thành nguồn lực từ môi trường bên trong và bên ngoài còn rất ít, chưa được sử dụng nhiều, điều này sẽ mang lại luận giải mới về vấn đề nghiên cứu.
Thứ tư, những công trình chỉ ra rằng kết quả nghiên cứu bị chi phối bởi ngữ cảnh thị trường, trong khi đó nghiên cứu kết quả xuất khẩu rất hiếm tại các các nước đang phát triển. Bối cảnh nghiên cứu trong những nền kinh tế đang phát triển, kết quả xuất khẩu tồn tại nhiều điểm không tương đồng so với những nền kinh tế đã phát triển. Cho đến nay, còn rất hiếm nghiên cứu định lượng về các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu doanh nghiệp XKRQ dựa vào nền tảng mô hình lý thuyết để bổ sung các yếu tố phù hợp với tình hình Việt Nam.
Cuối cùng, các yếu tố mới, đặc trưng và nổi bật về mô hình các yếu tố ảnh hưởng đến kết quả xuất khẩu doanh nghiệp XKRQ Việt Nam như năng lực công nghệ và rào cản kỹ thuật thương mại, và việc đo lường và kiểm định mối quan hệ giữa các yếu tố (năng lực công nghệ, rào cản kỹ thuật thương mại, chiến lược marketing xuất khẩu thích nghi và kết quả xuất khẩu) chưa được thực hiện nghiên cứu. Các nghiên cứu gần đây đã nhấn mạnh sự gia tăng của các rào cản kỹ thuật thương mại (Kayhia,