Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở các số liệu xét xử của Toà án tỉnh Bình Dương - 5

Các quan hệ xã hội này là khách thể của tội phạm, nếu bị tội phạm xâm hại đến và gây nên (hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể, nhất định.

Khách thể của tội phạm là quan hệ xã hội được LHS bảo vệ và bị tội phạm xâm hại gây nên thiệt hại. Không có sự xâm hại quan hệ xã hội được PLHS bảo vệ thì không có tội phạm.

Khách thể của tội phạm với tính chất là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội phạm cùng với các yếu tố khác của nó là cơ sở để đặt vấn đề TNHS của một người. Khách thể của tội phạm bao giờ cũng có ảnh hưởng nhất định ở các mức độ khác nhau đến bản chất xã hội pháp lý của tội phạm, cũng như đến tính nguy hiểm cho xã hội của nó. Khách thể của tội phạm có ý nghĩa quan trọng đối với việc truy cứu TNHS vì sự đánh giá về mặt pháp lý hình sự các dấu hiệu thuộc khách thể của tội phạm là nhằm xác định xem hành vi phạm tội được thực hiện đã xâm hại đến quan hệ xã hội nào được bảo vệ bằng PLHS và vai trò của các dấu hiệu đó trong việc truy cứu TNHS đối với hành vi đã được thực hiện thực tế ra sao.

Như vậy, với ý nghĩa là những quan hệ xã hội bị tội phạm gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại, khách thể của tội phạm là một trong bốn yếu tố cấu thành tội phạm có vị trí đặc biệt.

Khách thể của các tội xâm phạm tính mạng của con người được quy định từ điều 93 đến Điều 103 BLHS là quyền sống của con người bị xâm phạm hoặc bị đe dọa xâm phạm trực tiếp.

Khách thể của tội phạm xâm phạm tính mạng con người là một trong những khách thể quan trọng nhất được LHS bảo vệ. Đó là quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng.

Con người - với tư cách là chủ thể của các mối quan hệ xã hội; vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Việc bảo vệ tính mạng, sức khoẻ cho mọi người đã được thể chế hoá trong Hiến pháp và trong nhiều văn bản

PLHS của Nhà nước. Quyền sống là một trong những quyền cơ bản nhất của con người. Cuộc sống của con người được tính từ thời điểm được sinh ra cho đến khi chết. Người chết là người mà tim ngừng đập, thần kinh ngừng hoạt động, tức là khi người đó không còn khả năng tiếp nhận những yếu tố bảo đảm của sự sống. Như vậy, cần phải phân biệt con người đang sống hiện tại với con người đang sống khi chưa lọt lòng mẹ (còn ở trong bào thai) và người chết với người ốm đang chết từng bộ phận. Chỉ còn một số bộ phận hoạt động thì vẫn coi là người còn sống.

Đối tượng tác động của nhóm tội này là những chủ thể có quyền được tôn trọng và bảo vệ về tính mạng. Đó là những người đang sống, những người đang tồn tại trong thế giới khách quan với tư cách là con người một thực thể tự nhiên và xã hội.

Quyền sống được đảm bảo bằng sự an toàn trong cuộc sống của mỗi người. Cuộc sống được tính từ thời điểm lọt lòng mẹ, cất tiếng khóc chào đời, có khả năng độc lập tiếp nhận những yếu tố vật chất cho đến khi chết - tắt thở, trái tim ngừng đập theo qui luật của tự nhiên. Và như vậy, PLHS bảo hộ người đang sống, con người có khả năng độc lập tiếp nhận các yếu tố đảm bảo cuộc sống cho dù tình trạng sống hay khả năng tiếp nhận những yếu tố ở mức độ là tối thiểu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

Trong một số tội, cấu thành tội phạm đòi hỏi ở đối tượng tác động không chỉ là con người đang sống, đang tồn tại mà còn đòi hỏi ở họ những dấu hiệu đặc trưng khác. Ví dụ như đối với tội giết con mới đẻ đòi hỏi trẻ sơ sinh tính từ thời điểm lọt lòng mẹ đến 7 ngày tuổi; hoặc đối tượng tác động của tội bức tử là người có mối quan hệ lệ thuộc vào người phạm tội.

Như vậy, có thể khái quát lại, khách thể của các tội phạm xâm phạm quyền sống của con người là quyền sống, quyền được tôn trọng và bảo vệ tính mạng của con người. Đối tượng tác động của tội phạm là những người đang

Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở các số liệu xét xử của Toà án tỉnh Bình Dương - 5

sống cụ thể, đang tồn tại trong thế giới khách quan với tư cách là một con người, một thực thể tự nhiên và xã hội.

b) Mặt khách quan của tội phạm

Mặt khách quan của tội phạm là mặt bên ngoài của tội phạm, là tổng hợp các dấu hiệu do LHS qui định và các tình tiết phản ánh hành vi bên ngoài của sự xâm hại cụ thể gây nguy hiểm đáng kể cho khách thể được bảo vệ bằng PLHS. Các dấu hiệu thuộc nội dung mặt khách quan của tội phạm gồm có hành vi nguy hiểm cho xã hội, hậu quả tác hại, mối quan hệ giữa hành vi và hậu quả; những dấu hiệu bên ngoài khác như thời gian, địa điểm, công cụ, phương tiện…Bất cứ tội phạm cụ thể nào cũng đều phải có những biểu hiện bên ngoài. Không có những biểu hiện bên ngoài thì không có những yếu tố khác của tội phạm và do vậy cũng không có tội phạm.

Mặt khách quan của tội phạm là một trong bốn yếu tố của tội phạm. Không có mặt khách quan thì cũng không có các yếu tố khác của tội phạm và do vậy cũng không có tội phạm. Việc xác định hành vi cụ thể có cấu thành tội phạm hay không thường bắt đầu từ việc nghiên cứu mặt khách quan. Chỉ khi đã xác định trong hành vi của con người có những dấu hiệu khách quan của tội phạm thì vấn đề xem xét mặt chủ quan mới được đặt ra. Ngoài ra, trong cấu thành tội phạm tăng nặng, giảm nhẹ, qua nghiên cứu các giáo trình cho thấy, ngoài ý nghĩa trong việc định tội danh, việc nghiên cứu mặt khách quan của tội phạm còn có ý nghĩa trong việc đánh giá mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội. Trong nhiều trường hợp còn có ý nghĩa trong việc xác định mặt chủ quan của tội phạm nhất là việc xác định lỗi và qua đó có ý nghĩa trong việc định khung hình phạt.

Nghiên cứu về mặt khách quan của nhóm tội xâm phạm tính mạng con người trong LHS Việt Nam, nhiều giáo trình, công trình nghiên cứu, bài viết của các nhà khoa học đưa ra quan điểm như:

Hành vi khách quan của các tội xâm phạm tính mạng con người tuy hình thức thể hiện có khác nhau nhưng có cùng tính chất là đều trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra thiệt hại về tính mạng hoặc đe dọa gây thiệt hại về tính mạng con người. Trong những hành vi phạm tội của nhóm tội này có những hành vi có thể được thực hiện bằng cả hình thức hành động và không hành động.

Hậu quả các hành vi xâm phạm tính mạng con người (trừ hành vi đe dọa giết người theo Điều 103) có thể trực tiếp hoặc gián tiếp gây ra thiệt hại đến quyền sống của con người, thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất là chết người. Dấu hiệu hậu quả chết người chỉ là dấu hiệu bắt buộc đối với cấu thành tội phạm ở các Điều 93, 94, 95, 96, 97, 98, 99 và Điều 102 BLHS. Ở các cấu thành tội phạm còn lại hậu quả chết người không phải là dấu hiệu bắt buộc.

-Theo Bình luận khoa học BLHS, năm 2010, do Tiến sỹ Trần Văn Luyện làm chủ biên, các tội xâm phạm tính mạng con người là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của con người; được thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động. Hậu quả nguy hiểm cho xã hội là những tổn hại về thể chất gây chết người.

- Bình luận khoa học BLHS - Tập I, xuất bản năm 2012 nêu: Các tội xâm phạm tính mạng con người được thể hiện ở hành vi nguy hiểm cho xã hội, xâm phạm tính mạng con người. Phần lớn hành vi phạm tội được thực hiện bằng phương pháp hành động hoặc không có sự hỗ trợ của các loại phương tiện, công cụ khác nhau tạo nên sự tác động vật chất vào thân thể của con người, gây ra những thiệt hại trong một chừng mực nhất định. Hành vi nguy hiểm của các tội xâm phạm tính mạng con người là hành vi tích cực của chủ thể phạm tội thông qua đối tượng tác động là con người cụ thể được biểu hiện ở những dạng khác nhau như đánh, đấm, bắn, chém…là những tác động của vật lý học, hóa học, sinh học, vi sinh học.

Một số tội phạm trong nhóm tội phạm xâm phạm tính mạng con người

thể hiện dưới dạng không hành động. Hành vi không hành động của chủ thể phạm tội đã đi ngược hoặc không đáp ứng yêu cầu của phần quy định trong quy phạm pháp luật buộc mọi người phải thực hiện trong những điều kiện nhất định. Tính trái pháp luật được biểu hiện bằng việc không làm điều pháp luật bắt buộc phải làm, từ đó gây nên những thiệt hại nhất định cho những quan hệ xã hội và bị coi là tội phạm.

Đa số cấu thành tội phạm trong nhóm các tội xâm phạm tính mạng con người là cấu thành vật chất tức là hậu quả nguy hiểm cho xã hội xảy ra, có mối quan hệ nhân quả với hành vi nguy hiểm thì tội phạm được coi là hoàn thành.

Như vậy, mặt khách quan của tội phạm xâm phạm tính mạng con người được thể hiện là hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái PLHS, được biểu hiện ra ngoài dưới dạng hành động hoặc không hành động, xâm hại hoặc đe dọa xâm hại đến tính mạng con người. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả là dấu hiệu bắt buộc.

Hình thức hành động và không hành động rơi vào các tội Điều 93 - Tội giết người: Người phạm tội dùng vũ lực, sức mạnh, thủ đoạn khác để tước đoạt người khác hoặc có thể không hành động nhằm tước đoạt sinh mạng của bị hại như bỏ đói, không cho uống thuốc điều trị bệnh…; Điều 98 - Tội vô ý làm chết người: Người phạm tội này vô ý thực hiện hành vi dẫn đến chết người hoặc vô ý không thực hiện hành vi nên gây ra cái chết của nạn nhân. Có những hành vi chỉ thực hiện bằng hình thức hành động, đó là tội qui định tại các điều 96, 97, 100, 101, 103 BLHS và có hành vi chỉ có thể được thực hiện bằng hình thức không hành động - Điều 102: Tội không cứu giúp người đang ở trong tình trạng nguy hiểm đến tính mạng.

Phân tích mặt khách quan của một số tội phạm cụ thể thấy rằng có nhiều điểm cần lưu ý:

- Mặt khách quan của tội giết người (Đ. 93 BLHS): Hành vi thể hiện bằng hình thức hành động hoặc bằng hình thức không hành động với nhiều thủ đoạn khác nhau. Hành vi tước đoạt tính mạng nêu trên phải trái pháp luật hình sự, còn nếu việc tước đoạt tính mạng của người khác không trái pháp luật thì không phạm tội này. Đó là trường hợp thi hành án tử hình và trường hợp loại trừ tính chất tội phạm. Về hậu quả, có thể chết người hoặc không chết người: Nếu hậu quả chết người là dấu hiệu để xác định tội phạm đã hoàn thành. Còn nếu hậu quả chết người chưa xảy ra, thì tùy theo trường hợp có thể xử lý tội giết người ở các giai đoạn:

+ Chuẩn bị phạm tội: Đối tượng đã chuẩn bị công cụ, phương tiện để giết người nhưng không thực hiện được hành vi do yếu tố khách quan, ngoài ý muốn chủ quan của người phạm tội.

+ Phạm tội giết người chưa đạt hoàn thành: Người phạm tội đã thực hiện đầy đủ hành vi nhằm mục đích tước đoạt sinh mạng của người khác nhưng bị hại không chết vì một nguyên nhân ngoài ý muốn của người phạm tội. Ví dụ như sau khi đâm nạn nhân nhiều nhát nghĩ là nạn nhân chết, đối tượng bỏ đi nhưng sau đó nạn nhân được người khác phát hiện đưa đi cấp cứu nên giữ được tính mạng.

+ Phạm tội giết người chưa đạt chưa hoàn thành: Là trường hợp người phạm tội đang thực hiện hành vi giết người thì nạn nhân được giải cứu nên hậu quả chết người chưa xảy ra. Lưu ý trong ba trường hợp trên đều phải rơi vào trường hợp lỗi cố ý trực tiếp.

- Mặt khách quan tội giết con mới đẻ (Đ.94 BLHS): Đứa trẻ chết là dấu hiệu bắt buộc và đứa trẻ phải dưới 7 ngày tuổi. Người thực hiện hành vi là người mẹ, bị ảnh hưởng nặng nề tư tưởng lạc hậu hoặc hoàn cảnh đặc biệt. Nếu không đảm bảo các điều kiện này người thực hiện hành vi có thể bị xử lý về tội giết người theo Điều 93 BLHS. Hành vi thể hiện dưới dạng hành động hoặc không hành động và đứa trẻ chết là dấu hiệu bắt buộc để định tội.

- Tội giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Đ.95 BLHS): Về khách quan, chủ thể phải ở trong tình trạng tinh thần bị kích động mạnh do hành vi trái pháp luật của nạn nhân. Hành vi trái pháp luật của nạn nhân phải có mối quan hệ nhân quả với trạng thái tinh thần bị kích động mạnh ở người phạm tội. Nhưng nếu nạn nhân là người tâm thần, trẻ em dưới 14 tuổi có hành vi làm cho người phạm tội rơi vào trạng thái tinh thần bị kích động mạnh mà thực hiện hành vi giết người thì người phạm tội bị xử lý về tội giết người.

- Mặt khách quan của tội giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng (Đ.96 BLHS): Là hành vi tước đoạt tính mạng của người đang có hành vi xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của người đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc của công dân khác rõ ràng là quá mức cần thiết. Thực chất đây là trường hợp giết người có nhiều tình tiết giảm nhẹ đặc biệt do phòng vệ chính đáng. Do vậy, ngoài những dấu hiệu giống tội giết người thì phải dựa trên cơ sở chế định phòng vệ chính đáng, vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng để xác định. Tội phạm này đòi hỏi phải hội tụ đủ các điều kiện: Người bị tước đoạt tính mạng phải là người đang có hành vi xâm hại đến các lợi ích hợp pháp của Nhà nước, tổ chức và công dân có tính chất mức độ nguy hiểm đáng kể. Hành vi xâm hại đến các lợi ích hợp pháp nói trên của người bị tước đoạt tính mạng phải đang xảy ra, tức đã bắt đầu nhưng chưa kết thúc; thiệt hại do hành vi phòng vệ vượt quá gây ra là gây nên hậu quả chết người cho người có hành vi xâm hại gây ra. Hành vi tước bỏ tính mạng của người đang có hành vi xâm hại rõ ràng là vượt quá mức cần thiết; phải xem xét đến các tình tiết để đánh giá như: Tính chất của quan hệ xã hội bị xâm hại, tính chất nguy hiểm của hành vi tấn công, cường độ của sự tấn công và các điều kiện khác… Hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc để định tội, không có hậu quả chết người thì không phạm tội

này. Nếu hậu quả gây thương tích từ 31% trở lên thì phạm tội quy định tại Điều 106 BLHS là cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ. Giữa hành vi tước đoạt tính mạng của người đang có hành vi xâm phạm đến lợi ích hợp pháp với hậu quả chết người xảy ra có mối quan hệ nhân quả với nhau.

- Mặt khách quan tội phạm giết người trong khi thi hành công vụ (Đ. 97 BLHS): Là hành vi dùng vũ lực để thực hiện công vụ nhưng vượt ngoài khuôn khổ pháp luật cho phép dẫn đến làm chết người. Người thi hành công vụ đang thực thi nhiệm vụ công đã dùng vũ lực ngoài trường hợp pháp luật cho phép, tức là dùng vũ lực trái với các quy định của pháp luật, như: Trái với Nghị định 94/HĐBT ngày 2/7/1984, với quy định của Điều 20 Pháp lệnh Cảnh sát nhân dân ngày 21/1/1989; quy định về dùng vũ khí khác như: Quy định của Pháp lệnh An ninh nhân dân, Chỉ thị số 07 ngày 22/12/1983 của Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 02 ngày 5/1/1986 và Nghị quyết số 04 ngày 29/11/ 1986 của Hội đồng Thẩm phán tòa án nhân dân tối cao…Dùng vũ lực nói trong điều luật được hiểu là dùng sức mạnh vật chất tác động lên thân thể nạn nhân, gây nên cái chết cho họ. Hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này vì nếu chỉ gây thương tích từ 31% trở lên thì xử lý theo Điều 107 BLHS – tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ. Hậu quả chết người ở đây có thể là cái chết của người có hành vi trái pháp luật hoặc là những người khác.

Phải xác định về mối quan hệ nhân quả giữa hành vi dùng vũ lực ngoài trường hợp cho phép của người đang thi hành công vụ và hậu quả chết người đã xảy ra. Khi phân tích mặt khách quan tội phạm này, có mấy điểm cần lưu ý: Trường hợp sử dụng vũ khí nhưng không trái pháp luật thì không phạm tội. Không phải mọi trường hợp có chức vụ, quyền hạn thì vào thời gian nào cũng coi là thi hành công vụ mà trường hợp một người đang thi

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 24/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí