thực hiện quyền và nghĩa vụ làm chứng một cách hiệu quả cũng như cơ chế bảo vệ họ với tư cách là nhân chứng trong vụ án hình sự.
+ Về sự có mặt của người làm chứng tại phiên tòa: Mặc dù Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 xác định sự có mặt của người làm chứng tại phiên tòa là quan trọng để làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án nhưng luật cũng quy định người làm chứng có thể vắng mặt tại phiên tòa nếu như trước đó đã có lời khai ở Cơ quan điều tra. Quy định này là vi phạm nguyên tắc "Khi nghị án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ và các tài liệu đã được thẩm tra tại phiên tòa , trên cơ sở xem xét đầy đủ , toàn diện các chứng cứ , ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa" [31]. Quy định này đã tạo khe hở pháp luật là có những lời khai của người làm chứng chưa được làm rõ tại phiên tòa nhưng vẫn được sử dụng làm căn cứ xác định tội phạm. Việc không bảo đảm quyền tham gia phiên tòa để thẩm tra lại chứng cứ của người làm chứng sẽ dẫn đến sự vi phạm quyền được bào chữa của bị can bị cáo. Phải quy định trong luật sự có mặt của nhân chứng là bắt buộc tại phiên tòa và nếu vắng mặt thì phải hoãn phiên tòa. Mọi bản án nếu xét xử chỉ công bố lời khai của người làm chứng có từ trước trong giai đoạn điều tra đều bị coi là vi phạm nghiêm trọng tố tụng.
+ Về quyền của người làm chứng đối với Biên bản phiên tòa: luật tố tụng hình sự không quy định người làm chứng có quyền yêu cầu được xem biên bản phiên tòa và đề nghị bổ sung, sửa chữa cho chính xác lời khai của họ tại phiên tòa. Trong thực tiễn thì các thư ký ghi chép không kịp diễn biến phiên tòa, ghi thiếu, ghi sai ý do đó việc nhân chứng không được xem biên bản sẽ gây hậu quả là họ mất quyền yêu cầu bổ sung, sửa chữa lời khai của mình và rõ ràng là sẽ ảnh hưởng đến quyền của bị can, bị cáo và là tiềm ẩn dẫn đến việc án xử oan sai.
+ Trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định rất nhiều nghĩa vụ và trách nhiệm của người làm chứng nhưng lại không có quy định về chế độ
đãi ngộ khuyến khích người làm chứng trong việc hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng.
Những hạn chế nêu trên của Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 thể hiện Bộ luật tố tụng hình sự mới chưa đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp. Cụ thể là nguyên tắc tranh tụng dân chủ giữa các bên tại tòa án và tòa án có trách nhiệm tạo điều kiện cho những người tham gia tố tụng (bao gồm cả người làm chứng) thực hiện các quyền nhằm làm rõ sự thật khách quan của vụ án.
Thứ hai: Bộ luật tố tụng hình sự không có những quy định bảo đảm quyền của người làm chứng trong hoạt động tố tụng hình sự
So sánh quyền của người làm chứng với quyền của những người tham gia tố tụng khác thì có thể thấy quyền của người làm chứng được quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 là rất khiêm tốn. Ngoài ra trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 có những quy định rất tiến bộ phù hợp với các nguyên tắc quốc tế về bảo đảm quyền con người nhưng những quy định này lại ít tính khả thi trong thực tế, thể hiện qua một số vấn đề sau:
- Về quy định bảo đảm quyền được bảo đảm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, tài sản và các quyền và lợi ích hợp pháp khác của người làm chứng cũng như người thân thích của họ: Pháp luật tố tụng hình sự quy định nếu người làm chứng bị đe dọa đến tính mạng thì sẽ được Cơ quan có thẩm quyền áp dụng biện pháp bảo vệ. Tuy nhiên quy định tiến bộ này chưa được thực hiện đầy đủ và hiệu quả trên thực tế, quy định của luật hiện hành chưa thật sự là biện pháp hữu hiệu để bảo vệ nhân chứng bởi vì luật chỉ quy định việc bảo vệ trong quá trình tố tụng. Việc sau khi tòa án cấp phúc thẩm tuyên án thì coi như nhân chứng không được đặt dưới sự bảo vệ nữa và nhiều trường hợp họ đã bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe vì họ đã ra làm chứng. Điều này giải thích tại sao trong các vụ án hình sự ít khi có sự tham gia của nhân chứng tại phiên tòa.
Điểm hết sức tiến bộ trong vấn đề bảo vệ nhân chứng quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đó là luật còn bảo vệ cả người thân thích của người làm chứng, trong trường hợp họ "bị đe dọa đến tính mạng, sức khỏe, bị xâm phạm danh dự, nhân phẩm, tài sản đó thì cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải áp dụng những biện pháp cần thiết để bảo vệ theo quy định của pháp luật" [31]. Nhưng quy định này không áp dụng được vào thực tiễn cuộc sống như mục tiêu của những người làm luật mong muốn bởi vì Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 tuy đã ghi nhận vấn đề này nhưng mới chỉ dừng lại ở tính nguyên tắc mà chưa có cơ chế bảo đảm thực thi. Cụ thể là luật không quy định "người thân thích" của người làm chứng là những người nào và luật cũng không quy định cụ thể về "những biện pháp cần thiết" để bảo vệ họ. Chính vì vậy mà quy định trên đây chỉ là hình thức không có tác dụng động viên, khuyến khích, bảo đảm cho người làm chứng khai báo trung thực về tất cả những gì họ biết để giúp cơ quan tiến hành tố tụng nhanh chóng xác định được sự thật.
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Quát Về Bảo Vệ Quyền Con Người Của Người Làm Chứng Ở Một Số Nước Trên Thế Giới
- Đề Án Không Nhân Chứng, Không Công Lý Của Vương Quốc Anh
- Các Quy Định Của Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Hiện Hành Về Bảo Vệ Người Làm Chứng
- Thực Tiễn Bảo Vệ Quyền Con Người Của Người Làm Chứng
- Hoàn Thiện Các Quy Định Về Trách Nhiệm Của Các Cơ Quan Tiến Hành Tố Tụng Trong Việc Bảo Vệ Người Làm Chứng
- Hoàn Thiện Các Quy Định Về Trách Nhiệm Đối Với Việc Xâm Phạm Quyền Con Người Của Người Làm Chứng
Xem toàn bộ 102 trang tài liệu này.
- Về quyền khiếu nại của người làm chứng - một trong số những quy định tiến bộ trong Bộ luật tố tụng hình sự cũng không được áp dụng: Bộ luật dành hẳn một chương quy định về khiếu nại tố cáo trong tố tụng hình sự thể hiện rõ mục tiêu và trách nhiệm bảo đảm thực hiện dân chủ trong hoạt động tố tụng hình sự, bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân nhưng không có quy định cụ thể liên quan đến quyền khiếu nại của người làm chứng, một số quy định mới chỉ dừng lại lại ở nguyên tắc chung nên tính khả thi thấp.
- Về đảm bảo quyền tham gia phiên tòa của người làm chứng: quy định này bất cập ở chổ là phiên tòa vẫn có thể tiến hành khi không có người làm chứng tham gia. Trong thực tế có nhiều trường hợp người làm chứng không tham gia phiên tòa vì nhiều lý do: có thể lúc phiên tòa diễn ra thì người làm chứng bị chết, bị ốm liệt giường không thể đến được... nhưng những trường hợp này là hy hữu vì đơn giản là người làm chứng không muốn tham
gia phiên tòa vì nhiều lý do. Tuy pháp luật quy định cho hội đồng xét xử quyền được quyết định hoãn phiên tòa khi thiếu người làm chứng hay vấn tiếp tục tiến hành xét xử (Điều 192) nhưng điều luật này lại không quy định cụ thể những trường hợp nào thì được hoãn còn trường hợp nào thì vẫn tiến hành xét xử. Việc luật quy định cho phép người làm chứng vắng mặt tại phiên tòa càng làm cho điều luật trở nên hình thức và việc áp dụng vào thực tiễn xét xử kém hiệu quả
- Thiếu cơ chế đảm bảo quyền của người làm chứng quy định trong Bộ luật tố tụng hình sự: Tuy các quyền của người làm chứng đã được thể hiện tại Điều 55 nhưng luật lại không có cơ chế bảo đảm cho họ quyền được yêu cầu khôi phục danh dự, quyền lợi, bồi thường thiệt hại khi việc khiếu nại là đúng. Mặt khác theo quy định tại điều 55 thì người làm chứng không được quyền tố cáo cũng là sự hạn chế một quyền quan trọng của người làm chứng. Vì vậy, không đảm bảo nguyên tắc trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Thứ ba: vấn đề bảo vệ người làm chứng là người chưa thành niên vẫn còn những điểm hạn chế.
Về bảo đảm quyền của người làm chứng chưa thành niên: Pháp luật tố tụng hình sự quy định người làm chứng là người không thể thay thế trong tố tụng, tức là không thể tham gia tố tụng thông qua chế định ủy quyền mà phải tham gia tố tụng để trực tiếp khai báo cho cơ quan tiến hành tố tụng về những điều mình biết liên quan đến vụ án và khi cần thiết thì tham gia đối chất với người bị hại, với các người làm chứng khác khi có mâu thuẫn trong lời khai, khi cần thiết có thể tham gia thực nghiệm điều tra để giúp làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án… Pháp luật tố tụng hình sự cũng không quy định về độ tuổi của người tham gia tố tụng với tư cách là người làm chứng miễn là người đó phải có khả năng nhận biết sự việc và khai báo về sự việc đó. Đương nhiên là họ sẽ được cơ quan điều tra triệu tập để khai báo về những gì mà họ biết. Nếu xét
thấy sự có mặt của họ tại phiên tòa là cần thiết để khai báo và đối chất với các bị cáo khác trong vụ án. Điều bất cập là ở chỗ quy định của luật thực định không có quy định về thủ tục đặc biệt lấy lời khai và tiến hành các hoạt động làm chứng đối với những người làm chứng là chủ thể được bảo vệ bởi các văn bản pháp luật khác ví dụ như Luật về bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em.
Việc quy định về người giám hộ cho người làm chứng chưa thành niên trong Bộ luật tố tụng hình sự mới cũng chưa phù hợp với thực tế và với quy định của các luật khác. Tuy vai trò của người làm chứng dưới 16 tuổi cũng có ý nghĩa nhất định trong điều tra vụ án hình sự nhưng trong thực tiễn ít khi thấy những biên bản ghi chép lời khai báo của những người làm chứng thuộc lứa tuổi trẻ em mặc dù trên thực tế vẫn có việc hỏi các nhân chứng trẻ em. Nguyên nhân chủ yếu có thể vì Bộ luật tố tụng hình sự không có quy định cụ thể về thủ tục đặc biệt đối với hoạt động tham gia làm chứng của người làm chứng dưới 16 tuổi cũng như các cơ chế để bảo đảm quyền của họ phù hợp với Hiến pháp và các luật chuyên ngành. Nên chăng cần thiết phải bổ sung những quy định về thủ tục đặc biệt đối với người làm chứng chưa thành niên ở độ tuổi dưới 16 tuổi và đối với trường hợp người làm chứng dưới 16 tuổi, luật cho phép họ có người giám hộ cùng tham gia thì không quy định về việc những người này cũng được cơ quan triệu tập thanh toán. Theo quan điểm của chúng tôi tư cách công dân của người làm chứng trong tố tụng hình sự vẫn còn nguyên vẹn, mặt khác việc tham gia tố tụng của người làm chứng vào hoạt động tố tụng hình sự có tác dụng làm sáng tỏ các tình tiết liên quan đến vụ án, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng xác định sự thật của vụ án, góp phần bảo đảm việc xử lý vụ án được công minh, không bỏ lọt tội phạm đồng thời cũng không làm oan người vô tội, nên cần mở rộng sự bảo đảm quyền của người làm chứng theo hướng đảm bảo nguyên tắc dân sự đó là mọi quyền công dân của người làm chứng phải được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ chứ không
bó hẹp trong môt số quyền về nhân thân và tài sản như quy định trong luật.
2.2. THỰC TRẠNG XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHOẺ, DANH DỰ, NHÂN PHẨM VÀ TÀI SẢN CỦA NGƯỜI LÀM CHỨNG TRONG TỐ TỤNG HÌNH SỰ
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của nền kinh tế - chính trị xã hội và thành quả to lớn mà chúng ta đã giành được trong công cuộc xây dựng, bảo vệ đất nước thì tình hình hoạt động của các loại tội phạm đang có sự gia tăng với tính chất tội phạm ngày càng tinh vi và nguy hiểm, đặc biệt là tội phạm có tổ chức. Hoạt động xét xử ở nước ta cũng như ở một số nước trên thế giới hiện nay đang gặp phải trở ngại to lớn là sự tác động của giới tội phạm đối với những người làm chứng và người thân của họ. Những kẻ phạm tội biết rõ những thông tin, tài liệu do người làm chứng cung cấp có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định sự thật của vụ án, giúp các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự đưa ra những quyết định chính xác, giải quyết kịp thời đúng đắn vụ án hình sự. Do đó, cùng với việc che dấu hành vi phạm tội, đối tượng phạm tội, đồng bọn hoặc thân nhân... chúng ngày càng chú ý tạo ra những tác động tiêu cực như tung tin đe dọa, mua chuộc, khống chế nhằm hạn chế hoặc loại trừ khả năng tham gia tố tụng của người làm chứng. Các hình thức cưỡng bức người làm chứng để họ không hợp tác với Cơ quan tiến hành tố tụng thông qua việc trình bày lời khai gian dối, phản cung, không khai báo... cũng được áp dụng triệt để, ngày càng tinh vi và phức tạp hơn. Thực trạng đó đã dẫn đến thái độ thờ ơ, né tránh của một bộ phận nhân dân đối với các hành vi vi phạm pháp luật nói chung, hành vi phạm tội nói riêng. Việc bất cập trong pháp luật cũng như trong thực tiễn về người làm chứng, dẫn đến thực trạng người làm chứng không tham dự phiên tòa, người làm chứng khai báo sai sự thật, người làm chứng và người thân của họ bị đe dọa và hành hung… gây ra nhiều thiệt hại đáng kể cho nhà nước và xã hội.
Thực tế cho thấy, tuỳ từng vụ án, bọn tội phạm, đồng bọn, hoặc nhân thân của chúng có thể thực hiện một hay một số thủ đoạn như: mua chuộc, đe
dọa, khống chế, trả thù người làm chứng nhằm ngăn cản người làm chứng hợp tác với các cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án.
Hành vi mua chuộc người làm chứng: được hiểu là việc đối tượng phạm tội, đồng bọn hoặc thân nhân của chúng sử dụng lợi ích vật chất hay những lợi ích khác để tác động người sẵn sàng người làm chứng để họ không hợp tác với cơ quan có thẩm quyền, cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án. Đây là thủ đoạn được sử dụng phổ biến nhất của bọn tội phạm vì muốn lợi dụng điều kiện, hoàn cảnh cuộc sống khó khăn của người làm chứng
để mua chuộc họ, làm cho họ không dám làm chứ ng taị tòa dẫn đến việc cơ quan tiến hành tố tụng không đủ căn cứ để xử lý đối tượng phạm tội.
- Khống chế, đe doa người làm chứng: là việc đối tượng phạm tội, đồng
bọn hoặc thân nhân của chúng lợi dụng những yếu điểm về thể chất, quan hệ huyết thống, bí mật về đời tư ... của người làm chứng để tác động làm cho họ lo sợ bị tiết lộ, hoặc sẽ bị xâm hại nếu cung cấp thông tin về tội phạm cho các cơ quan tiến hành tố tụng.
- Trả thù người làm chứng: là hành vi của đối tượng gây án, đồng bọn hay thân nhân của chúng gây ra những thiệt hại về thể chất, tinh thần hoặc tài sản cho người làm chứng hoặc người thân thích của họ do việc họ đã hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng, cung cấp thông tin, tài liệu có liên quan đến hành vi phạm tội của đối tượng. Thủ đoạn trả thù thường được thực hiện sau khi đã có kết quả xử lý đối tượng phạm tội, trong đó có nhờ sự khai báo của người làm chứng hoặc thực hiện sau khi mua chuộc, khống chế, đe dọa người làm chứng mà không có kết quả như mong muốn.
Mặc dù chưa có thống kê chính thức của các cơ quan chức năng về tình hình đe dọa hoặc xâm hại người làm chứng, nhưng từ nhiều kênh thông tin khác nhau, có thể xác nhận những tác động của đối tượng phạm tội, đồng bọn hoặc thân nhân của chúng là nguyên nhân dẫn đến một số vụ án hình sự không được xử lý hoặc giải quyết không triệt để và đưa đến kết quả rất tiêu
cực. Tình trạng đó có thể được minh chứng qua một số vụ việc điển hình trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự ở nước ta như sau:
- Năm 2004, tại quận 9 Thành phố Hồ Chí Minh, cô G quê ở Đồng Tháp bị bảy thanh niên làm nhục. Cuối năm 2005, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đưa vụ án ra xét xử. Theo giấy khai sinh, cô G chưa tròn 18 tuổi nên Viện kiểm sát truy tố bảy bị cáo theo tình tiết tăng nặng định khung là phạm tội với người chưa thành niên. Nhưng, theo sổ hộ khẩu của gia đình cô G lại thể hiện lúc bị xâm hại thì cô đã thành niên. Cho nên, Toà đã mời mẹ cô ra toà với tư cách nhân chứng.
Theo lời khai của bà mẹ, nếu tính theo mùa sinh thì lúc bị xâm hại cô gái chưa thành niên; còn hộ khẩu do bà ngoại tự ý làm không có căn cứ, nên khác với giấy khai sinh. Sau khi xem xét lời khai, Toà đã quyết định mức hình phạt nặng với các bị cáo. Ngay sau khi phiên toà kết thúc, tại sân toà, hai mẹ con cô gái bị thân nhân các bị cáo chửi bới và đe doạ trả thù "Tụi mày không muốn về quê hay sao mà dám khai như vậy?" [1, tr. 59]. Sau khi những người đó đi hết, hai mẹ con mới dám ra về.
- Tòa án nhân dân quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh đưa Nguyễn Văn Hiệp (Hiệp cây đa, đàn em của tay giang hồ cộm cán Bình Kiểm) ra xử về tội "cố ý gây thương tích" và "gây rối trật tự công cộng". Tại phiên Toà, các nhân chứng và người bị hại nhất loạt phủ nhận lời khai tại Cơ quan điều tra. Công tố viên cho biết trong thời gian chờ ra Toà, đàn em của Hiệp ở ngoài đã tác động, khống chế các nhân chứng và người bị hại nên họ sợ, không dám nói sự thật. Tuy nhiên, bằng các chứng cứ khác, Toà vẫn buộc tội được Hiệp.
- Năm 1996, vụ võ sư Nguyễn Văn Vạn giết người gây xôn xao dư luận tại quán cà phê Linda ở quận 4 Thành phố Hồ Chí Minh. Nhờ có một số người làm chứng, nên cơ quan điều tra đã xác định được hung thủ. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã tuyên phạt Vạn án tù chung thân nhưng Viện kiểm sát không đồng tình, kháng nghị bản án theo hướng tử hình, còn