Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở các số liệu xét xử của Toà án tỉnh Bình Dương - 3

Trong giai đoạn này, không có văn bản nào quy định riêng về tội giết người mà tội giết người chỉ được đề cập trong các văn bản quy định về một nhóm tội cần tập trung trấn áp để bảo vệ chính quyền, công sản và một số đối tượng đặc biệt nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phản đế, phản phong. Theo Điều 4, Mục 2, Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953, trừng trị những tội xâm phạm an ninh đối nội và an toàn đối ngoại của Nhà nước quy định:Kẻ nào phạm những tội vây quét, bắt, giết, tra tấn, khủng bố, hà hiếp cán bộ và nhân dân, áp bức, bóc lột, cướp phá nhân dân, bắt phu, bắt lính, thu thuế cho địch, sẽ tuỳ tội nặng nhẹ mà xử phạt như sau: Bọn chủ mưu, tổ chức, chỉ huy sẽ bị xử tử hình hoặc chung thân; …”; Điều 6 Sắc lệnh số 151-SL, ngày 12/4/1953, trừng trị địa chủ chống pháp luật quy định:Địa chủ nào phạm một trong những tội sau đây: Cấu kết với đế quốc, ngụy quyền, gián điệp thành lập hay cầm đầu những tổ chức, những đảng phái phản động để chống Chính phủ, phá hoại kháng chiến, làm hại nhân dân, giết hại nông dân, cán bộ và nhân viên… thì sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân hoặc xử tử hình…

Trong giai đoạn này, hành vi xâm phạm tính mạng của con người được quy định dưới nhiều hình thức khác nhau như: Ám sát, giết hại, cố ý giết người… Như Điều 1, Sắc lệnh số 27- SL, ngày 28/02/1946 trừng trị các tội bắt cóc, tống tiền và ám sát quy định: Những người phạm tội bắt cóc, tống tiền, ám sát sẽ bị phạt từ 2 năm đến 10 năm tù và có thể bị xử tử”; Khoản 1, Điều 6 Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953 trừng trị địa chủ chống pháp luật quy định địa chủ nào phạm một trong những tội sau đây thì sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân hoặc xử tử hình: Cấu kết với đế quốc, ngụy quyền, gián điệp thành lập hay cầm đầu những tổ chức, những đảng phái phản động để chống Chính phủ, phá hoại kháng chiến, làm hại nhân dân, giết hại nông dân, cán bộ và nhân viên; Điểm 3 của Thông tư số 442-TTg ngày 19/01/1955 quy định: Cố ý giết người phạt tù từ 5 năm đến 20 năm, nếu có trường hợp nhẹ thì có thể hạ xuống đến 1 năm, giết người có dự mưu có thể phạt đến tử hình.

Quy định về tội giết người trong giai đoạn này đã có sự phân hóa TNHS cũng như trong đường lối xử lí người phạm tội giết người và thể hiện rõ nguyên tắc nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, người hoạt động đắc lực, gây hậu quả nghiêm trọng…; khoan hồng đối với những người bị cưỡng bức, lừa gạt…Điều 4, Mục 2, Sắc lệnh số 133-SL ngày 20/01/1953 trừng trị những tội xâm phạm an ninh đối nội và an toàn đối ngoại của Nhà nước quy định: Kẻ nào phạm những tội vây quét, bắt, giết, tra tấn, khủng bố, hà hiếp cán bộ và nhân dân, áp bức, bóc lột, cướp phá nhân dân, bắt phu, bắt lính, thu thuế cho địch, sẽ tùy tội nặng nhẹ mà xử phạt như sau: a) Bọn chủ mưu, tổ chức, chỉ huy sẽ bị xử tử hình hoặc chung thân; b) Bọn hoạt động đắc lực làm hại nhiều người sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở lên; c) Những kẻ phạm các tội trên mà tội trạng tương đối nhẹ, sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở xuống; Điều 6 Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953 trừng trị địa chủ chống pháp luật quy định: Những kẻ bị cưỡng bức hay bị lừa gạt mà phạm tội thì tùy tội nặng nhẹ, thái độ hối lỗi của họ mà sẽ bị phạt tù từ 10 năm trở xuống.

Về đường lối xử lí, người phạm tội xâm phạm tính mạng con người mà tập trung ở tội giết người đã được mở rộng với nhiều loại và mức hình phạt có tính chất nghiêm khắc khác nhau. Như tại Điểm 3, Thông tư số 442-TTg ngày 19/01/1955 quy định: Cố ý giết người phạt tù từ 5 năm đến 20 năm, nếu có trường hợp nhẹ thì có thể hạ xuống đến 1 năm, giết người có dự mưu có thể phạt đến tử hình. Đối với hình phạt bổ sung, được quy định và áp dụng đối với người phạm tội giết người nhằm hỗ trợ cho hình phạt chính và mở thêm khả năng pháp lí cho toà án có thể lựa chọn hình phạt phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và nhân thân người phạm tội. Điều 6 Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953, trừng trị địa chủ chống pháp luật quy định: Địa chủ nào phạm một trong những tội sau đây: Cấu kết với đế quốc, ngụy quyền, gián điệp thành lập hay cầm đầu những tổ chức, những

đảng phái phản động để chống Chính phủ, phá hoại kháng chiến, làm hại nhân dân, giết hại nông dân, cán bộ và nhân viên;… thì sẽ bị phạt tù từ 10 năm đến chung thân hoặc xử tử hình, phải bồi thường thiệt hại cho nông dân, bị tịch thu một phần hay tất cả tài sản.

* Thời kỳ 1954-1975:

Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, miền Nam bị đế quốc Mỹ và bọn tay sai thống trị. Miền Bắc tiến hành cách mạng XHCN, quyết tâm phát triển đi lên để trở thành hậu phương vững chắc cho cách mạng cả nước, đặc biệt là hỗ trợ miền Nam tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ đánh đổ đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện mục tiêu giành lại độc lập tự do, thống nhất nước nhà.

Nghiên cứu PLHS nước ta trong thời kỳ này cho thấy có nhiều tiến bộ thể hiện ở một số đặc điểm chung như sau:

Về tội phạm, đối với trẻ em có sự khoan hồng, chiếu cố; dưới 14 tuổi thì không đưa ra Tòa án xét xử; từ 14 tuổi đến 18 tuổi, nếu trường hợp phạm pháp cần thiết phải đưa ra xét xử thì có châm chước; riêng đối với người phạm tội từ 14 tuổi đến 16 tuổi thì chỉ xét xử trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng. Quy định tiến bộ này tiếp tục được ghi nhận trong BLHS năm 1985 và BLHS năm 1999 sau này.

Về khái niệm lỗi, tuy chưa được chính thức ghi nhận trong các văn bản quy phạm pháp luật hình sự nhưng trong các văn bản của ngành Tòa án đã có sự phân biệt giữa các hình thức lỗi: Cố ý trực tiếp, cố ý gián tiếp, vô ý vì quá tự tin và vô ý vì cẩu thả. Về lỗi cố ý, từ thực tiễn xét xử loại tội giết người đã đưa ra khái niệm lỗi cố ý trực tiếp và lỗi cố ý gián tiếp. Theo đó, trong tội giết người có hai hình thức lỗi là cố ý- có sự cố ý trực tiếp khi can phạm thấy rõ rằng hành động của mình sẽ có hậu quả làm chết người khác, và chính vì mong muốn cho hậu quả đó xảy ra nên đã có hành vi. Lỗi cố ý gián tiếp: Can

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 125 trang tài liệu này.

phạm không mong muốn nạn nhân chết, nhưng biết rằng hành vi của mình có nhiều khả năng làm nạn nhân chết mà vẫn cứ làm và không trông mong vào một điều kiện cụ thể nào có thể ngăn chặn cho hậu quả đó đừng xảy ra. Ý thức chủ quan của can phạm là ý thức mặc kệ không quan tâm đến việc nạn nhân sống hay chết. Về lỗi vô ý được đề cập đến các hành vi: “Thiếu tinh thần trách nhiệm vi phạm quy tắc lao động, gây thiệt hại nghiêm trọng về người và tài sản”.

Định nghĩa pháp lý về các giai đoạn thực hiện tội phạm chưa được ghi nhận chính thức trong các văn bản quy phạm PLHS thời kỳ này, nhưng trong các văn bản của ngành Tòa án cũng đã đề cập các giai đoạn: Âm mưu phạm tội; Chuẩn bị phạm tội; Phạm tội chưa đạt; Tội phạm hoàn thành. Xuất phát từ việc phòng chống tội phạm phản cách mạng – là nhóm tội rất nghiêm trọng cần phải trấn áp ngay từ khi kẻ phạm tội bắt đầu biểu hiện ý nghĩ phản cách mạng nên hình thành khái niệm về “âm mưu phạm tội” - là giai đoạn đầu của việc tiến hành các tội phản cách mạng.

Các tội xâm phạm tính mạng của con người trong Luật hình sự Việt Nam trên cơ sở các số liệu xét xử của Toà án tỉnh Bình Dương - 3

Các văn bản quy phạm PLHS thời kỳ này đối với tội xâm phạm tính mạng con người (giết người) đã đề cập đến khái niệm chuẩn bị phạm tội. Theo Bản tổng kết số 452-HS2 ngày 10-8-1970 của TANDTC: Muốn gọi là có dự mưu, việc chuẩn bị kế hoạch giết người của can phạm phải được suy nghĩ tương đối kỹ càng trước khi bước vào hành động.

Tương tự như giai đoạn chuẩn bị phạm tội, giai đoạn phạm tội chưa đạt và tội phạm hoàn thành cũng chỉ được đề cập đối với tội giết người trong văn bản trên: Tội giết người hoàn thành khi người bị nạn chết. Đối với trường hợp giết người, nhưng không chết, nên thống nhất gọi là giết người chưa đạt; trong trường hợp này tuy giết người chưa đạt, nạn nhân không chết, nhưng can phạm cho là đã làm hết mọi việc cần thiết để giết người và tưởng nạn nhân đã chết.

Cùng với sự phát triển của khoa học LHS, khái niệm đồng phạm đã bắt

đầu xuất hiện trong các sách báo pháp lý, các báo cáo tổng kết của ngành Tòa án. Phạm tội có tổ chức lần đầu tiên được đề cập trong Thông tư số 442-TTg ngày 19-1-1955 của Thủ tướng Chính phủ nhưng thế nào là "có tổ chức" thì chưa được giải thích.

Nhìn chung trong giai đoạn này có các văn bản PLHS tiêu biểu như:

- Sắc lệnh số 267 ngày 15/6/1956 về trừng trị âm mưu và hành động phá hoại tài sản nhà nước, hợp tác xã và tài sản riêng của công dân;

- Pháp lệnh ngày 30/10/1967 trừng trị tội phản cách mạng…

Để thực hiện đường lối mà Đảng ta đề ra trong giai đoạn từ năm 1955 đến năm 1976, Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hòa và TANDTC đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn đường lối xử lý tội giết người như: Chỉ thị số 1025-TATC ngày 15/6/1960 của TANDTC về đường lối xử lí tội giết người vì mê tín; Chỉ thị số 01-NCCS ngày 14/3/1963 của TANDTC về xử lí tội giết trẻ sơ sinh; Bản chuyên đề tổng kết thực tiễn xét xử loại tội giết người ban hành kèm theo Công văn số 452-HS2 ngày 10/8/1970 của TANDTC về thực tiễn xét xử tội giết người; Báo cáo tổng kết công tác toàn ngành năm 1975 của TANDTC; Công văn số 37 và 38-NCPL ngày 16/01/1976 của TANDTC; Sắc luật số 03-SL ngày 15/3/1976 của Hội đồng Chính phủ cách mạng lâm thời và Thông tư số 03-SL-BTP-TT ngày 15/4/1976 của Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành Sắc luật số 03 nói trên quy định các tội phạm và hình phạt trong đó có tội giết người với nội dung: Phạm tội cố ý giết người thì bị phạt tù từ 15 năm đến tù chung thân hoặc bị xử tử hình. Trường hợp có tình tiết giảm nhẹ thì mức hình phạt có thể thấp hơn.

Có thể nói, các quy định về tội xâm phạm tính mạng con người trong các văn bản pháp luật của Nhà nước ta giai đoạn này đã kế thừa những thành tựu lập pháp hình sự (LPHS) của giai đoạn trước trong việc phân hoá TNHS cũng như trong đường lối xử lí người phạm tội xâm phạm tính mạng con người. Cụ thể như:

- Giết người kèm theo một trong những tình tiết tăng nặng đặc biệt sau đây thì có thể bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình: Giết người có dự mưu; giết người để che giấu hoặc để dễ dàng thực hiện một tội phạm khác; giết người kèm theo hiếp dâm, cướp của hay một tội phạm nghiêm trọng khác; giết người một cách cực kì man rợ; giết nhiều người…

- Giết người kèm theo tình tiết giảm nhẹ đặc biệt sau đây thì bị phạt thấp hơn 15 năm tù: Giết người trong tình trạng tinh thần bị kích động một cách mạnh mẽ và đột xuất do hành vi sai trái nghiêm trọng của nạn nhân.

- Giết người trong những trường hợp thông thường, không có tình tiết tăng nặng cũng không có tình tiết giảm nhẹ thì bị phạt tù từ 5 năm đến 20 năm.

So với giai đoạn trước, quy định về tội xâm phạm tính mạng con người trong giai đoạn này đã có sự phát triển đáng kể trong việc phân hoá TNHS cũng như trong đường lối xử lí người phạm tội. Cụ thể là:

- Nhiều tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ được bổ sung thêm trong giai đoạn này. Nhưng điểm đáng chú ý nhất là lần đầu tiên LHS có sự phân biệt tình tiết tăng nặng chung với tình tiết tăng nặng đặc biệt và tình tiết giảm nhẹ chung với tình tiết giảm nhẹ đặc biệt.

- Những tình tiết tăng nặng đặc biệt được quy định trong tội giết người gồm: Giết người vì động cơ đê hèn hoặc có tính chất côn đồ; giết phụ nữ mà biết là có mang; giết người bằng thủ đoạn nguy hiểm có thể làm chết nhiều người; giết người trong khi được giao nhiệm vụ công tác hoặc vì nạn nhân thi hành nhiệm vụ; can phạm có nhân thân rất xấu.

- Những tình tiết giảm nhẹ đặc biệt được quy định trong tội giết người gồm: Giết người trong tình trạng bị nạn nhân ngược đãi, áp bức tàn tệ; giết người vượt quá phạm vi phòng vệ cần thiết; giết trẻ em mới đẻ; giết người vì mê tín; giết người hủi, người điên, người tàn tật, giết trẻ em vì sợ bị lây bệnh hoặc để khỏi phải nuôi nấng khổ sở trong hoàn cảnh khốn quẫn về kinh tế.

- Những tình tiết tăng nặng thông thường được quy định trong tội giết người gồm: Giết người với lỗi cố ý trực tiếp; giết người có tổ chức; giết người có sự lợi dụng chức vụ, chuyên môn, nghề nghiệp, vũ khí được giao phó; giết người gây ảnh hưởng chính trị xấu một cách rõ rệt…

- Những tình tiết giảm nhẹ thông thường được quy định trong tội giết người gồm: Giết người có sự đồng tình của nạn nhân; can phạm là vị thành niên…

Lần đầu tiên, đường lối xử lí người phạm tội giết người được quy định một cách rõ ràng trong LHS như khi nào thì có thể và nên áp dụng hình phạt tử hình, khi nào thì có thể áp dụng án treo, cần xét xử như thế nào khi vừa có tình tiết tăng nặng đặc biệt, vừa có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt. Cụ thể là:

- Áp dụng hình phạt tử hình đối với người phạm tội giết người trong trường hợp tập trung nhiều tình tiết tăng nặng đặc biệt hoặc chỉ một tình tiết tăng nặng đặc biệt nhưng rất nghiêm trọng, nhân thân can phạm xấu, không có tình tiết giảm nhẹ hoặc không có tình tiết giảm nhẹ đáng kể.

- Áp dụng án treo đối với người phạm tội giết người trong trường hợp: Giết trẻ mới đẻ trong hoàn cảnh gặp nhiều khó khăn về mọi mặt; giết người hủi, người điên, người tàn tật trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, với động cơ chủ yếu là muốn tránh khổ sở cho người bị nạn; một số trường hợp cộng phạm nhẹ.

- Khi vừa có tình tiết tăng nặng, vừa có tình tiết giảm nhẹ đặc biệt cần đánh giá đúng đắn tính chất và mức độ nguy hiểm của mỗi tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ, cần so sánh, đối chiếu để thấy được ảnh hưởng qua lại giữa các tình tiết đó với nhau, trên cơ sở đó mà ấn định mức án cho thích hợp. Mức án này có thể xuống dưới mức tối thiểu của khung hình phạt nặng mà cũng có thể cao hơn mức tối đa của khung hình phạt nhẹ.

* Thời kỳ từ năm 1975 đến trước khi ban hành BLHS năm 1985:

Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam, tình hình đất nước gặp phải nhiều khó khăn, nhất là phải đối phó với hai cuộc chiến tranh ở biên giới Tây Nam và biên giới phía Bắc. Công tác quản lý xã hội ở miền Nam còn nhiều bỡ ngỡ. Một số phần tử xấu đã lợi dụng tình hình này để tiến hành các hoạt động phạm tội rất dã man, tàn bạo như: Giết nhiều người, giết người đốt xác phi tang, giết người kèm theo cướp của hay hiếp dâm. Để hàn gắn vết thương chiến tranh, lập lại trật tự xã hội, việc thống nhất pháp luật cũ và xây dựng pháp luật mới là nhiệm vụ cấp bách. Căn cứ vào Nghị quyết ngày 02/7/1976 của Quốc hội khoá VI, kỳ họp thứ nhất, Hội đồng Chính phủ đã thu thập ý kiến của các ngành và đã chủ trương: Những văn bản pháp luật hiện hành ở hai miền đều được áp dụng chung trong cả nước vì đều là xuất phát từ đường lối, chính sách của Đảng. Đối với các tỉnh phía Nam, những Sắc luật mới được ban hành cũng như những văn bản pháp luật khác của Chính phủ cách mạng lâm thời vẫn tiếp tục được áp dụng. Nhưng nếu có điều khoản nào đã được quy định một cách quá tổng quát, thì có thể và cần thiết phải vận dụng luật lệ đã được thi hành ở miền Bắc. Đối với vấn đề nào mà ở miền Nam trước đây chưa có luật lệ mà miền Bắc đã có, thì vận dụng luật lệ đang được thi hành ở miền Bắc, nhưng phải xem xét vận dụng vào tình hình, đặc điểm của miền Nam cho phù hợp. Đối với miền Bắc, các vấn đề nào mà miền Bắc chưa có hoặc tuy đã có nhưng chưa thích hợp mà miền Nam đã có và tiến bộ hơn thì áp dụng luật lệ ở Miền Nam.

Nhìn chung, trước tình hình cách mạng mới của đất nước, LHS cũng có nhiều đổi mới quan trọng. Tuy nhiên, nhiệm vụ chủ yếu, xuyên suốt từ sau giải phóng đến nay của pháp LHS là bảo vệ vững chắc Nhà nước XHCN, chế độ XHCN, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện để Nhà nước ta thực hiện thành công sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước.

Xem tất cả 125 trang.

Ngày đăng: 24/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí