Thứ hai, xuất phát từ thực tiễn đã được tổng kết cho thấy tình trạng gia tăng các vi phạm pháp luật về SHTT nói chung; những quy định và việc áp dụng pháp luật hình sự xử lý các tội xâm phạm SHTT chưa phúc đáp được yêu cầu chống và phòng ngừa các tội phạm này.
Theo số liệu thống kê từ Chương trình 168 về phối hợp hành động và phòng chống xâm phạm quyền SHTT cho thấy, trong năm 2020, các lực lượng chức năng, bộ ngành đã xử phạt 1.300 vụ xâm phạm quyền SHTT. Các hành vi xảy ra phổ biến như: sản xuất, buôn bán hàng hóa giả mạo, xâm phạm quyền SHTT trên môi tường internet, nhiều vụ việc có tính chất xuyên biên giới; những vi phạm cạnh tranh không lành mạnh; nhái nhãn hiệu, vi phạm liên quan đến tên miền, tên thương mại; xâm phạm quyền đối với sáng chế, giải pháp hữu ích và xâm phạm quyền đối với bí mật kinh doanh. Trong số đó, có khoảng 95% các vụ xâm phạm quyền SHTT được xử phạt bằng biện pháp hành chính. Và theo thống kê từ cơ quan xét xử hình sự, số vụ phạm tội xâm phạm SHTT được xét xử chiếm tỷ lệ rất thấp. Trong khi đó trên thực tế, các vụ xâm phạm SHTT, đặc biệt là trên nền tảng số có xu hướng phổ biến hơn; các hành vi xâm phạm có chuyển biến nhanh, thủ đoạn tinh vi, khó lường và rất phức tạp, gây ra những thiệt hại to lớn cho chủ thể sáng tạo cũng như kinh tế - xã hội.
Mặc dù, các biện pháp hành chính, dân sự, thương mại nêu trên đã phát huy được những tác dụng tích cực trong hạn chế các vi phạm về SHTT; tuy nhiên, thực tiễn cho thấy những hình thức này chưa đủ sức răn đe, ngăn chặn hành vi xâm phạm. Điều này phần nào đặt ra vấn đề liệu việc quy định và áp dụng quy định pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT có thực sự phù hợp và hiệu quả?
Song song với thực trạng gia tăng những hành vi xâm phạm thông thường, xuất hiện thêm những hành vi xâm phạm mới có nguy hiểm đáng kể cho xã hội nhưng chưa được quy định là tội phạm và bị xử lý về hình sự, dẫn đến giảm hiệu quả chống và phòng ngừa các vi phạm về SHTT nói chung.
Thứ ba, xuất phát từ quan điểm của Đảng, Nhà nước về bảo vệ quan hệ SHTT.
Chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước đã thể hiện rõ quan điểm cần thiết phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về SHTT vì những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong nhiều văn kiện chính trị quan trọng:
Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 24/05/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam đến năm 2020 đã chỉ rõ một trong những định hướng xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam là: “Hoàn thiện pháp luật bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ, hình thành và phát triển thị trường khoa học - công nghệ theo hướng mở rộng phạm vi các đối tượng được bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ phù hợp với yêu cầu của WTO và các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.‖ Tiếp đó, Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 cũng chỉ ra một trong những nhiệm vụ cải cách tư pháp là hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự, trong đó cần “Quy định là tội phạm đối với những hành vi nguy hiểm cho xã hội mới xuất hiện trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và hội nhập quốc tế.‖
Vấn đề hoàn thiện pháp luật về SHTT được khẳng định tại Nghị quyết số 06/NQ-TW ngày 05/11/2016 của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XII và tiếp tục được đề cập trong Báo cáo đánh giá kinh tế của Đại hội Đảng lần thứ 13 cũng đã đề xuất “tăng cường công tác bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ”. Nghị quyết Đại hội 13 được thông qua cũng nêu rõ 06 nhiệm vụ trọng tâm trong nhiệm kỳ Đại hội XIII, một trong những nhiệm vụ kinh tế được nhấn mạnh đó là: “hoàn thiện hệ thống pháp luật, nhất là pháp luật về bảo hộ sở hữu trí tuệ và giải quyết các tranh chấp dân sự, khắc phục những điểm nghẽn cản trở sự phát triển của đất nước.”
Thứ tư, xuất phát từ quan điểm của pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền SHTT: “Các vấn đề và mối quan tâm về sở hữu trí tuệ ngày càng hòa nhập với các vấn đề toàn cầu khác; hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này không thể tiếp tục triển khai khi tách rời môi trường chính sách rộng hơn.‖ [74, tr.8]
Trong thời kỳ mà hội nhập kinh tế quốc tế trở thành một xu hướng tất yếu, việc hợp tác phát triển ở nhiều lĩnh vực giữa các quốc gia trên thế giới trong đó có lĩnh vực SHTT là một đòi hỏi cấp thiết. Hiệp định TRIPS về các khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền SHTT đánh dấu sự xuất hiện của quyền SHTT trong vai trò một lĩnh vực đàm phán thương mại đa phương. Tiếp nối truyền thống của TRIPS, lĩnh vực SHTT được các hiệp định đối tác đa phương, song phương và khu vực khác nhau, đặc biệt là các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới (như CPTPP, EVFTA…) đưa ra với tư cách một trong những lĩnh vực đàm phán,
Có thể bạn quan tâm!
- Các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ theo pháp luật hình sự Việt Nam - 1
- Tình hình nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
- Tình hình nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
- Tình Hình Nghiên Cứu Vấn Đề Hoàn Thiện Và Bảo Đảm Áp Dụng Đúng Quy Định Của Pháp Luật Hình Sự Về Các Tội Xâm Phạm Sở Hữu Trí Tuệ
Xem toàn bộ 208 trang tài liệu này.
thỏa thuận và ký kết. Những sự hợp tác này đã, đang và sẽ mang lại nhiều cơ hội cũng như thách thức cho các quốc gia thành viên (trong đó có Việt Nam). Một trong số những thách thức đó là việc hoàn thiện chính sách, pháp luật. Sau những thỏa thuận chủ yếu điều chỉnh các nội dung cơ bản của việc thực thi quyền SHTT bằng các biện pháp dân sự, thương mại, hành chính thì các biện pháp xử lý hình sự đối với tội xâm phạm SHTT được đặc biệt nhấn mạnh bởi các đối tác phát triển. Theo đó, yêu cầu xử lý hình sự các hành vi phạm tội ở mức độ nhất định đối với quốc gia thành viên được thể hiện trong các FTA nói riêng, Điều ước quốc tế có liên quan ngày một chặt chẽ và cụ thể hơn, trong đó, có một số yêu cầu đặt ra mà pháp luật hình sự Việt Nam chưa đảm bảo được sự tương thích.
Thứ năm, xuất phát từ lý luận khoa học về nhóm các tội phạm trong luật hình sự: Nghiên cứu các tội xâm phạm SHTT nói riêng, các tội phạm nói chung dưới góc độ lý luận khoa học luật hình sự cho thấy: Việc nghiên cứu tội phạm không chỉ là nghiên cứu từng tội danh cụ thể mà còn bao gồm nghiên cứu tập hợp các tội phạm có điểm chung. Trong đó, đặc điểm chung về tính chất quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ và bị tội phạm xâm hại (khách thể của tội phạm) là tiêu chí cơ bản nhất để sắp xếp các tội danh khác nhau vào cùng một nhóm, ví dụ: các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người; các tội xâm phạm quyền con người, quyền tự do, dân chủ của công dân; các tội xâm phạm sở hữu… Đây là một trong những cơ sở để nhận thức tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi, giúp xây dựng đường lối xử lý thống nhất đối với các tội phạm trong cùng nhóm.
Mặt khác, lý luận chung về các tội xâm phạm SHTT là một trong cơ sở để xây dựng cấu thành tội phạm của các tội cụ thể. Trên cơ sở nhận thức đúng đắn về mặt khoa học những yếu tố của tội phạm, các nhà xây dựng pháp luật cũng như các nhà áp dụng pháp luật mới có thể quy định phù hợp và áp dụng chính xác các dấu hiệu của tội phạm. Do vậy, việc nghiên cứu lý luận về các tội xâm phạm SHTT là một yêu cầu cần thiết, góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận khoa học luật hình sự; tạo cơ sở nhận thức và xây dựng các quy định của pháp luật hình sự một cách khoa học.
Với những lý do nêu trên, việc nghiên cứu toàn diện các tội xâm phạm SHTT theo pháp luật hình sự Việt Nam là cần thiết, có ý nghĩa thời sự về lý luận cũng như thực tiễn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ theo pháp luật hình sự Việt Nam, luận án đề xuất các giải pháp hoàn thiện và bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam đối với các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, luận án đặt ra phải giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
- Phân tích những vấn đề lý luận về các tội xâm SHTT;
- Khái quát lịch sử lập pháp, phân tích quy định của pháp luật hình sự Việt Nam (trọng tâm là quy định của BLHS năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017) về các tội xâm phạm SHTT; đồng thời, phân tích, so sánh với pháp luật quốc tế và pháp luật một số quốc gia về các tội phạm này nhằm rút ra được bài học kinh nghiệm cho Việt Nam;
- Phân tích, đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm SHTT; tìm ra những vướng mắc, bất cập và nguyên nhân của các vướng mắc, bất cập đó.
- Đưa ra được các yêu cầu và giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự; giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu các quan điểm lý luận, học thuyết khoa học về các tội xâm phạm SHTT; quy định của pháp luật hình sự Việt Nam ở những thời kỳ khác nhau và pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia trên thế giới về các tội xâm phạm SHTT; thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam trong những năm gần đây về các tội xâm phạm SHTT; yêu cầu và giải pháp hoàn thiện, bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Đối với các vấn đề lý luận và pháp luật thực định, thời gian nghiên cứu bám sát tiến trình lịch sử pháp luật hình sự Việt Nam (tập
trung phân tích các giai đoạn kể từ khi BLHS đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1985 ra đời đến nay). Đối với thực tiễn áp dụng pháp hình sự, thời gian nghiên cứu đối với các số liệu từ năm 2010 đến năm 2020; thời gian nghiên cứu đối với các vụ án được tiến hành từ năm 2010 đến nay.
- Địa bàn nghiên cứu:
+ Nghiên cứu quy định của pháp luật hình sự được thực hiện trên phạm vi: quy định của pháp luật hình sự Việt Nam có tham khảo thêm một số vấn đề pháp luật quốc tế và pháp luật 04 nước (Hoa Kỳ, Pháp, Trung Quốc, Singapore).
+ Nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam được thực hiện với các số liệu, các vụ việc (có tính đại diện) trên phạm vi cả nước.
- Giới hạn đối tượng nghiên cứu: ngoài những giới hạn về thời gian và địa bàn nêu trên, trong nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm SHTT, tác giả lựa chọn chỉ tập trung làm rõ hoạt động áp dụng luật nội dung (Luật hình sự) để đi sâu nghiên cứu, đảm bảo dung lượng của luận án.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Luận án lấy chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về tội phạm, về TNHS làm phương pháp luận nghiên cứu.
Các phương pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng phù hợp cho từng chương trong luận án, cụ thể:
Chương 1: Sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp, phương pháp so sánh, phương pháp hệ thống hóa để làm rõ các vấn đề liên quan đến đề tài đã được nghiên cứu trong các công trình khoa học đã công bố để tìm ra những nội dung nên kế thừa, cần được tiếp tục nghiên cứu trong luận án.
Chương 2: Sử dụng phương pháp phân tích, phương pháp diễn dịch, phương pháp tổng hợp để làm rõ các vấn đề lý luận về các tội xâm phạm SHTT.
Chương 3: Sử dụng phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp diễn dịch, phương pháp so sánh, phương pháp tổng hợp để làm rõ các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam, pháp luật quốc tế và pháp luật của một số quốc gia về các tội xâm phạm SHTT.
Chương 4: Sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp nghiên cứu điển hình, phương pháp chuyên gia, phương pháp phân tích, phương pháp tổng hợp để nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hình sự hiện hành về các tội xâm phạm SHTT; đưa ra các yêu cầu, biện pháp hoàn thiện và các biện pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự Việt Nam về các tội này.
Các tội xâm phạm SHTT là một vấn đề đa phương diện. Với xu hướng đổi mới tư duy tiếp cận nghiên cứu từ đơn ngành sang tư duy kết hợp tiếp cận đa ngành, liên ngành trong nghiên cứu luật học, luận án kết hợp các hướng tiếp cận khác nhau phù hợp với yêu cầu của từng nội dung cần làm sáng tỏ trong luận án. Từ đó, các hướng tiếp cận của luận án bao gồm tiếp cận tiếp cận luật học thực định (là hướng tiếp cận chủ đạo), xã hội học pháp luật, kinh tế học, chính sách học pháp luật và tiếp cận dựa trên quyền.
5. Những đóng góp mới của luận án
Về nội dung: Luận án là công trình nghiên cứu về các tội xâm phạm SHTT một cách tương đối toàn diện, khoa học và có tính chuyên sâu.
Trên cơ sở kế thừa tri thức đã có, luận án đã thiết lập được hệ thống lý luận và quy định của pháp luật Việt Nam về các tội xâm phạm SHTT; luận giải một cách khoa học sự hình thành, vận động và phát triển quy định đó; đánh giá được tính tương thích/bất tương thích giữa pháp luật hình sự Việt Nam với pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia về các tội xâm phạm SHTT nhằm đúc rút được những giá trị tham khảo cho Việt Nam.
Luận án cũng góp phần khắc họa bức tranh tổng thể về các vấn đề thực tiễn trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự về các tội xâm phạm SHTT đặc biệt là trong hoạt động định tội danh và quyết định TNHS đối với các tội phạm này.
Như mục đích nghiên cứu đề ra, luận án kiến giải một cách tương đối đầy đủ, có cơ sở khoa học và mang tính khả thi cao các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự cũng như các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng các quy định của pháp luật hình sự về nhóm tội xâm phạm SHTT.
Về hướng tiếp cận: Luận án đã lựa chọn hướng tiếp cận mang tính đa ngành, liên ngành, là một xu hướng nghiên cứu hiện đại đang ngày một áp dụng nhiều hơn trong các cấp độ nghiên cứu khoa học pháp lý.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Trước hết, kết quả nghiên cứu của luận án có thể được sử dụng để thống nhất về nhận thức các quy định của pháp luật về các tội xâm phạm SHTT, góp phần khắc phục những hạn chế trong quy định của pháp luật hình sự và những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, từ đó, giúp nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm nói chung cũng như các tội xâm SHTT nói riêng.
Với tư cách công trình nghiên cứu mang tính hệ thống và toàn diện về các tội xâm phạm SHTT theo pháp luật hình sự Việt Nam, luận án có thể cung cấp hệ thống cơ sở lý luận và thực tiễn hoạt hoạt động hoàn thiện pháp luật khi các cơ quan lập pháp, các tổ chức xã hội và công dân tham gia vào việc đóng góp ý kiến nhằm tiếp tục sửa đổi, bổ sung các quy định trong BLHS, BLTTHS và Luật khác có liên quan.
Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo, phục vụ công tác đào tạo, và nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực luật hình sự và những lĩnh vực SHTT tại các cơ sở đào tạo luật.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, mục lục luận án được kết cấu gồm 4 chương:
- Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
- Chương 2: Những vấn đề lý luận về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
- Chương 3: Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam và pháp luật quốc tế, pháp luật một số quốc gia về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
- Chương 4: Thực tiễn áp dụng và các yêu cầu, giải pháp hoàn thiện, bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.1. Khái quát về tình hình nghiên cứu đề tài
1.1.1. Tình hình nghiên cứu lý luận về các tội xâm phạm sở hữu trí tuệ
Các công trình nghiên cứu lý luận về các tội xâm phạm SHTT rất đa dạng ở nhiều chuyên ngành với các cấp độ khác nhau, có thể được chia thành các nhóm như sau:
Thứ nhất, nhóm các công trình có nội dung nghiên cứu về khái niệm, đặc điểm và các yếu tố của SHTT, quyền SHTT.
Trong các tài liệu nước ngoài, lý luận về SHTT được nhiều nhà khoa học quan tâm: Bài viết ―The philosophy of intellectual property‖ (tạm dịch: Triết lý về sở hữu trí tuệ) của tác giả Justin Hughes trên Tạp chí Georgetown Law tập 77 số 2 tháng 12 năm 1988; cuốn “Introduction to Intellectual Property Theory and Practice‖ (tạm dịch: Giới thiệu về lý thuyết và thực hành sở hữu trí tuệ) của Tổ chức WIPO năm 1997; cuốn “The Economic structute of Intellectual Property” (tạm dịch: Cơ cấu kinh tế của sở hữu trí tuệ) của tác giả William M. Landes và Richard A.Posner, nhà xuất bản Belknap của Đại học Harvard năm 2003; cuốn “Intellectual property law” (tạm dịch: Luật sở hữu trí tuệ) của tác giả L. Bently và B. Sherman (tái bản lần thứ 2), xuất bản bởi Đại học Oxford năm 2004; cuốn “Intellectual property law: text, cases and materials” (tạm dịch: Luật sở hữu trí tuệ: văn bản, các vụ việc và tài liệu) (tái bản lần thứ 3) của các tác giả Tanya Aplin, Jennifer Davis, xuất bản bởi Đại học Oxford năm 2017… Kết quả nghiên cứu được thể hiện trong các tài liệu này đã trình bày được sự phức tạp, phong phú của các quan điểm về khái niệm SHTT với sự đồng thuận lớn cho rằng đây là một loại sản phẩm của trí tuệ con người hoặc cho rằng đây là một loại tài sản đặc biệt. Số khác [132, tr.769-778] [141, tr.7615-7621] các bài nghiên cứu hoặc từ điển lại nhận định đây là một khái niệm dùng để chỉ các quy định pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo với các sản phẩm trí tuệ. Các nghiên cứu cũng chỉ ra những học thuyết về sự hình thành và phát triển quyền SHTT trong khoa học, pháp lý với những: lập luận về sự làm giàu bất chính (của các vi phạm SHTT); lập luận về quyền tự nhiên (dựa trên lý thuyết về tài sản của John Locke); lập luận dựa trên lý thuyết về nhân cách; lập luận về quyền con người; lập luận theo chủ nghĩa thực dụng; lập luận về mối quan hệ