Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự Việt Nam - 2


Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 4/2002, "Về tội ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con cháu, người có công nuôi dưỡng mình trong Bộ luật hình sự 1999", Tạp chí Kiểm sát, số 9/2002,); tác giả Nguyễn Quốc Việt chủ biên cuốn sách: Bộ luật hình sự mới của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 2001, trong đó có đề cập chương XV - Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình; tác giả Nguyễn Ngọc Điệp có công trình: "Tìm hiểu các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình và các tội đối với người chưa thành niên", Nxb Phụ nữ, Hà Nội; các tác giả Phan Đăng Thanh và Trương Thị Hòa có công trình: Pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam xưa và nay, Nxb Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh, 2000...

Như vậy, có thể thấy các công trình nói trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ nói chung và các tội xâm phạm chế độ gia đình nói riêng, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống về nhóm tội phạm này dưới góc độ pháp lý hình sự.

3. Mục đích, nhiệm vụ, đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn

Mục đích của luận văn

Mục đích của luận văn là trên cơ sở lý luận quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình và thực tiễn áp dụng các quy định về các tội phạm này trên thực tiễn để đề xuất những giải pháp mang tính hệ thống nhằm hoàn thiện các quy định của BLHS về các tội xâm phạm chế độ gia đình và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm này.

Nhiệm vụ của luận văn

Để đạt được mục đích trên, tác giả luận văn đã đặt ra và giải quyết các nhiệm vụ sau:

- Làm sáng tỏ khái niệm, các dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội xâm phạm chế độ gia đình trong luật hình sự; phân tích các quy định của pháp luật hình sự một số nước trên thế giới về loại tội phạm này.


Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

- Phân tích và đánh giá tình hình, nguyên nhân và thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội xâm phạm chế độ gia đình.

- Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy định của BLHS về các tội xâm phạm chế độ gia đình và các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng chống cũng như áp dụng pháp luật hình sự đối với các tội phạm này.

Các tội xâm phạm chế độ gia đình theo luật hình sự Việt Nam - 2

Đối tượng nghiên cứu của luận văn

Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ gia đình được quy định trong các điều 147, 150, 151, 152 BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009.

Phạm vi nghiên cứu của luận văn

Luận văn nghiên cứu các tội xâm phạm chế độ gia đình dưới góc độ pháp lý hình sự ở Việt Nam, thời gian từ năm 2010 đến tháng 6 năm 2015.

4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng Nhà nước và pháp luật, những thành tựu của các khoa học: triết học, tội phạm học, luật hình sự, tâm lý học, xã hội học...

Cơ sở thực tiễn của luận văn là những bản án, quyết định của Tòa án về các tội xâm phạm chế độ gia đình, các báo cáo tổng kết, số liệu thống kê của Tòa án nhân dân tối cao (TANDTC) về các tội xâm phạm chế độ gia đình.

Phương pháp luận của luận văn là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

Trong khi thực hiện đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp: hệ thống, phân tích, tổng hợp, lịch sử, cụ thể, lôgíc, kết hợp với các phương pháp khác như so sánh, điều tra xã hội...

5. Những đóng góp mới về khoa học của luận văn

Đây là công trình chuyên khảo đầu tiên trong khoa học pháp lý Việt Nam ở cấp độ luận văn thạc sĩ luật học, nghiên cứu một cách toàn diện, có hệ


thống về các tội xâm phạm chế độ gia đình. Có thể xem những nội dung sau đây là những đóng góp mới về khoa học của luận văn:

- Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận chung về các tội xâm phạm chế độ gia đình; những dấu hiệu pháp lý hình sự đặc trưng của các tội phạm này trong pháp luật hình sự hiện hành.

- Phân tích, đánh giá những quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới nhằm rút ra những giá trị hợp lý trong lập pháp hình sự, bổ sung cho những luận cứ và giải pháp được đề xuất trong luận văn.

- Đánh giá đúng thực trạng tình hình các tội xâm phạm chế độ gia đình ở Việt Nam, phân tích, làm rõ nguyên nhân của thực trạng đó.

- Đề xuất hệ thống các giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ gia đình.

6. Ý nghĩa của luận văn

Kết quả nghiên cứu và những kiến nghị của luận văn có ý nghĩa quan trọng đối với việc nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm chế độ gia đình ở nước ta. Thông qua kết quả nghiên cứu và các kiến nghị, tác giả mong muốn đóng góp phần nhỏ bé của mình vào kho tàng lý luận về tội phạm học, luật hình sự, cũng như vào cuộc đấu tranh phòng, chống nhóm tội phạm có tính nhạy cảm cao và phức tạp này.

Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy về khoa học pháp lý nói chung, khoa học luật hình sự, tội phạm học nói riêng và cho các cán bộ thực tiễn đang công tác tại cơ quan Công an, Viện kiểm sát (VKS), Tòa án.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành 3 chương.


Chương 1: Một số vấn đề về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong Luật hình sự Việt Nam

Chương 2: Quy định về các tội xâm phạm chế độ gia đình trong BLHS và thực tiễn thi hành

Chương 3: Môt số kiêń nghi,̣ giải pháp hoàn thiện các quy định của Bộ

luâṭ hình sự năm 1999 về các tôi

xâm pham

chế đô ̣gia đình và nâng cao chất

lươn

g xét xử các tôi

pham

này.


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM CHẾ ĐỘ GIA ĐÌNH THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM

1.1. Khái niệm và đặc điểm của các tội xâm phạm chế độ gia đình

1.1.1. Khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình

Để có thể làm sáng tỏ khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ nói chung và các tội xâm phạm chế độ gia đình nói riêng trước hết cần làm sáng tỏ khái niệm HN&GĐ.

Hôn nhân và gia đình - đó là những hiện tượng xã hội luôn được các nhà triết học, đạo đức học, xã hội học, luật học, sử học quan tâm nghiên cứu. Hôn nhân là cơ sở của gia đình, gia đình là tế bào của xã hội mà trong đó kết hợp hài hòa, chặt chẽ lợi ích của mỗi công dân, Nhà nước và xã hội.

C.Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh một cách khoa học rằng, HN&GĐ là những phạm trù phát triển theo lịch sử, rằng giữa chế độ kinh tế - xã hội và tổ chức gia đình có mối liên quan trực tiếp, chặt chẽ.

Hôn nhân là hiện tượng xã hội - là sự liên kết giữa người đàn ông và người phụ nữ. Sự liên kết đó phát sinh và hình thành do việc kết hôn và được biểu hiện ở một quan hệ xã hội gắn liền với nhân thân, đó là quan hệ vợ chồng. Đây là quan hệ giữa hai người khác giới tính, bản chất và ý nghĩa của nó thể hiện trong việc sinh đẻ, nuôi nấng và giáo dục con cái, đáp ứng lẫn nhau những nhu cầu tinh thần và vật chất trong đời sống hàng ngày. Có thể nói, sản xuất ra cuộc sống chính bản thân mình là nhờ lao động, còn sản xuất ra giống nòi là nhờ sinh đẻ, nói cách khác, tồn tại hai mối quan hệ: mối quan hệ tự nhiên và mối quan hệ xã hội. Quan hệ hôn nhân là quan hệ xã hội được xác định bởi các quan hệ sản xuất đang thống trị, vì vậy, tính chất của nó có thể thay đổi, phụ thuộc vào quan hệ sản xuất đang thống trị đó.


Trong mỗi giai đoạn phát triển của lịch sử, giai cấp thống trị đều điều chỉnh các quan hệ hôn nhân bằng pháp luật cho phù hợp với ý chí, nguyện vọng của mình, phục vụ lợi ích của giai cấp mình. Xã hội chiếm hữu nô lệ, có chế độ hôn nhân chiếm hữu nô lệ; xã hội phong kiến có chế độ hôn nhân phong kiến; xã hội tư bản có chế độ hôn nhân tư sản, còn xã hội XHCN có chế độ hôn nhân XHCN. Trong những xã hội bóc lột, những người thuộc giai cấp bị bóc lột thường khó có thể có quan hệ hôn nhân với những người thuộc giai cấp thống trị.

Dưới chế độ XHCN, hôn nhân thực sự mang tính chất bình đẳng, tự nguyện, tiến bộ, đó không phải là hợp đồng, mà là sự liên kết bền vững giữa người đàn ông và người phụ nữ, trên cơ sở yêu thương, quý trọng lẫn nhau, bảo đảm thỏa mãn nhu cầu vật chất và tinh thần của đôi bên, cũng như thỏa mãn nhu cầu sinh đẻ và giáo dục con cái [56, tr. 12 -16].

Hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người phụ nữ trên cơ sở nguyên tắc bình đẳng, tự nguyện theo quy định của pháp luật nhằm chung sống với nhau suốt đời và xây dựng gia đình ấm no, hạnh phúc.

Như vậy, chế độ gia đình được hiểu là tổng thể các quy định của pháp luật điều chỉnh mối quan hệ gia đình.

Khái niệm gia đình rộng hơn khái niệm hôn nhân. Nếu như hôn nhân là sự liên kết giữa một người đàn ông và một người phụ nữ, thì gia đình là sự liên kết của nhiều người có quan hệ với nhau do hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng. Gia đình là sản phẩm của xã hội, đã phát sinh và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội. Các điều kiện kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển nhất định là nhân tố quyết định tính chất và kết cấu của gia đình. Do vậy, gia đình là hình ảnh thu hẹp của xã hội, là tế bào của xã hội. Trong mỗi hình thái kinh tế - xã hội, gia đình mang tính chất và kết cấu phù hợp với hình thái đó. Gia đình XHCN khác về chất so với các kiểu gia đình


của các chế độ xã hội trước đó. Dưới chế độ XHCN, quan hệ bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia đình, phản ánh mối quan hệ bình đẳng giữa nam và nữ trong xã hội.

Như vậy gia đình là sự liên kết của nhiều người dựa trên cơ sở hôn nhân, huyết thống, nuôi dưỡng, trong đó mọi người cùng quan tâm giúp đỡ lẫn nhau về vật chất và tinh thần, xây dựng gia đình, nuôi dạy thế hệ trẻ dưới sự giúp đỡ của Nhà nước và xã hội.

Vấn đề tiếp theo cần làm sáng tỏ là khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ để từ đó có thể đưa ra khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình. Bởi lẽ khái niệm các tội xâm phạm chế độ gia đình nằm trong nhóm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.

Các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ cũng là một loại tội phạm, vì vậy nó phải thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của tội phạm, mà theo TSKH Lê Cảm, phải thể hiện ba bình diện với năm đặc điểm (dấu hiệu) của nó là: a) bình diện khách quan: tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội; b) bình diện pháp lý: tội phạm là hành vi trái pháp luật hình sự; c) bình diện chủ quan: tội phạm là hành vi do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện một cách có lỗi [30, tr. 105].

Trong khoa học pháp lý hình sự, các nhà hình sự học đã đưa ra khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ.

Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội cho rằng:

Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự do người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo luật định thực hiện bằng lỗi cố ý gây thiệt hại cho các quan hệ hôn nhân và gia đình mới, tiến bộ xã hội chủ nghĩa. Sự gây thiệt hại này thể hiện đầy đủ nhất bản chất nguy hiểm cho xã hội của các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình [31, tr. 295].


Các tác giả của Giáo trình luật hình sự Việt Nam của Trường Đại học Luật cho rằng, "các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi vi phạm nghiêm trọng các nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam" [57, tr. 405].

Trên cơ sở các quan điểm được trình bày ở trên, chúng tôi xin đưa ra khái niệm các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ như sau: Các tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, trái pháp luật hình sự, do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu TNHS thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam XHCN.

Hôn nhân và gia đình là một nhóm quan hệ xã hội chịu sự điều chỉnh của rất nhiều ngành luật. Luật HN&GĐ quy định về chế độ HN&GĐ, trách nhiệm của công dân, Nhà nước và xã hội trong việc củng cố chế độ HN&GĐ Việt Nam. Luật dân sự cũng điều chỉnh lĩnh vực HN&GĐ thông qua việc điều chỉnh quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình như giám hộ, đại diện, nuôi con nuôi, thừa kế, tài sản, quyền sở hữu... Luật hình sự không quy định quyền và nghĩa vụ nhân thân hay tài sản giữa vợ, chồng và các thành viên khác trong gia đình mà chỉ bảo vệ quan hệ nhân thân và quan hệ tài sản giữa các thành viên trong gia đình thông qua việc quy định một loạt các hành vi bị coi là tội phạm và hình phạt tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi đó như: tội vi phạm chế độ một vợ một chồng, tội cưỡng ép kết hôn, tội từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng...

Trong BLHS 1999, các tội xâm phạm chế độ HN&GĐ được quy định tại chương XV Phần các tội phạm (từ Điều 146 đến Điều 152) bao gồm các tội cụ thể sau: tội cưỡng ép kết hôn (Điều 146); tội cản trở hôn nhân tự nguyện tiến bộ (Điều 146); tội vi phạm chế độ một vợ một chồng (Điều 147); tội tổ chức tảo hôn (Điều 148); tội tảo hôn (Điều 148); tội đăng ký kết hôn trái

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/10/2023