Định Nghĩa Và Các Đặc Điểm Của Các Tình Tiết Loại Trừ Trách Nhiệm Hình Sự

Tên gọi “các tình tiết loại trừ TNHS” là tên gọi được sử dụng trong Giáo trình luật hình sự Việt Nam – Phần chung của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội (2003). Tác giả của Giáo trình này cho rằng “TNHS là hậu quả pháp lý của trường hợp hành vi nguy hiểm bị coi là tội phạm và đối lập với TNHS là không có hay loại trừ TNHS, là hậu quả pháp lý của hành vi gây hậu quả về hình sự nhưng không bị coi là tội phạm” [9, tr.284]. Tác giả luận văn chọn cách gọi này vì nó “… xác định rõ ràng phạm vi điều chỉnh của luật hình sự, đồng thời phù hợp với nhận thức chung của cán bộ áp dụng pháp luật đã được thống nhất lâu nay ở nước ta” [24, tr.9].

Khác với Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung của Khoa Luật thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội, các giáo trình Luật hình sự Việt Nam của hầu hết các cơ sở đào tạo luật khác như trường Đại học Luật Hà Nội (2013), trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh (2014), trường Đại học Huế (2001) đều đặt tên cho nhóm các quy phạm này là: “Những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi”. Sở dĩ tên gọi này được lựa chọn vì các tác giả cho rằng “hành vi đã thực hiện, xét về khách quan đã gây ra thiệt hại nhưng xét về chủ quan thì chủ thể thực hiện không có lỗi vì đã lựa chọn cách xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội... Do không có lỗi nên hành vi gây thiệt hại không bị coi là có tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm” [47, tr.201]. Các tác giả cho rằng, hành vi gây thiệt hại sẽ không phải chịu TNHS vì “xét về chủ quan thì chủ thể thực hiện không có lỗi vì đã lựa chọn cách xử sự phù hợp với đòi hỏi của xã hội”. Do vậy, hành vi được thực hiện tuy gây thiệt hại nhưng không phải là tội phạm. Theo đó, “gốc” của vấn đề là tính chất nguy hiểm cho xã hội bị loại trừ. Từ đó, các tác giả đưa ra định nghĩa về những tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi là “những tình tiết làm mất đi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại nên được quy định trong luật hình sự để xác định những trường hợp bình thường là tội phạm nhưng không bị coi là tội phạm khi được thực hiện trong những điều kiện kèm theo tình tiết đó” [47, tr.202]. Như vậy, các tác giả đã xuất phát

11

từ đặc điểm (dấu hiệu) về nội dung của tội phạm (tính nguy hiểm cho xã hội) khi đặt tên gọi riêng cho nhóm các quy phạm này. Ở đây, tính chất nguy hiểm cho xã hội được hiểu bao gồm tính gây thiệt hại về khách quan và tính có lỗi về chủ quan. Nếu hiểu tính nguy hiểm cho xã hội chỉ là tính gây thiệt hại hoặc đe dọa gây thiệt hại thì tên gọi trên đây sẽ không chính xác vì đặc điểm này “… của hành vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện luôn tồn tại không phụ thuộc vào có hay không có tình tiết phòng vệ chính đáng hay tình thế cấp thiết” [15, tr.39].

Khác với cách đặt tên trên đây, GS. TSKH. Lê Văn Cảm gọi các tình tiết đó là “Những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi”. Trong cuốn “Những vấn đề cơ bản trong khoa học luật hình sự (Phần chung)”, tác giả cho rằng, “tính chất tội phạm của hành vi là phạm trù rộng hơn và bao trùm lên tất cả các tính chất khác – tính nguy hiểm cho xã hội, tính chất lỗi, và tính chất trái pháp luật hình sự” [8, tr.516]. Theo đó, “những trường hợp (tình tiết) loại trừ tính chất tội phạm của hành vi là những tình tiết được điều chỉnh trong pháp luật hình sự mà khi có căn cứ do luật định thì việc gây thiệt hại về mặt pháp lý hình sự không bị coi là tội phạm và do vậy, người gây ra thiệt hại đó không phải chịu TNHS” [8; tr.504].

Một tên gọi khác được GS. TS. Nguyễn Ngọc Hòa nêu trong cuốn “Tội phạm và cấu thành tội phạm” là “các căn cứ hợp pháp của hành vi nguy hiểm cho xã hội”. Cách gọi này xuất phát từ quan điểm cho rằng “hành vi nguy hiểm cho xã hội chỉ bị coi là tội phạm khi hành vi đó được quy định trong BLHS và không thuộc những trường hợp có căn cứ hợp pháp khác. Theo đó, hành vi đã thực hiện tuy được quy định trong BLHS nhưng vẫn không phải là tội phạm nếu chủ thể có căn cứ hợp pháp được quy định trong BLHS khi thực hiện hành vi này” [15, tr.38]. Tác giả của tên gọi này cho rằng, các hành vi được quy định trong BLHS là các hành vi bị cấm nhưng một người vẫn có thể được quyền thực hiện những hành vi có tính gây thiệt hại đã được quy định đó trong trường hợp có căn cứ (tình tiết) nhất định được Bộ luật quy định. Do

12

vậy, những căn cứ (tình tiết) này được coi là các căn cứ hợp pháp của hành vi. Các căn cứ này làm cho hành vi đã thực hiện “...không còn tính trái pháp luật hình sự” [15, tr.39].

Bên cạnh các quan điểm về các tình tiết loại trừ TNHS được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau như đã trình ở trên, còn có quan điểm khoa học của một số nhà khoa học trong và ngoài nước đề cập đến vấn đề loại trừ TNHS.

Mỗi nhóm quan điểm nêu trên đều có lập luận khoa học và nhân tố hợp lý riêng của mình. Trên cơ sở tổng kết, tiếp thu các quan điểm khác nhau được giới thiệu khái quát trên đây, tác giả luận văn lựa chọn tên gọi “các tình tiết loại trừ TNHS” và hiểu các tình tiết này theo phạm vi chỉ bao gồm những tình tiết cho phép được thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 93 trang tài liệu này.

1.1.2. Định nghĩa và các đặc điểm của các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự

Các tình tiết loại trừ TNHS là các tình tiết mà khi có một trong các tình tiết này thì người có hành vi gây thiệt hại cho xã hội được quy định trong luật hình sự vẫn không phải chịu trách nhiệm hình sự.

Các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự trong Luật hình sự Việt Nam - 3

Như vậy, các tình tiết loại trừ TNHS chỉ được đề cập đến trong trường hợp một người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại cho xã hội và về hình thức đã thỏa mãn các dấu hiệu của một cấu thành tội phạm (CTTP). Nếu không có một trong các tình tiết loại trừ TNHS thì hành vi của họ đã CTTP, TNHS đã được đặt ra và họ phải gánh chịu trách nhiệm này. Nhưng TNHS đã không được đặt ra vì hành vi được thực hiện có một trong các tình tiết đặc biệt này, hay nói cách khác, các tình tiết đặc biệt này đã làm mất đi TNHS. Do có đặc điểm làm mất đi TNHS mà các tình tiết này có thể được gọi là các tình tiết loại trừ TNHS. Điều này cũng hoàn toàn phù hợp về mặt ngôn ngữ. Theo Từ điển Tiếng Việt, loại trừ có nghĩa là “làm cho mất đi, …” [21, tr.574] và như vậy các tình tiết loại trừ TNHS có nghĩa là các tình tiết làm mất đi TNHS. Khác với các tình tiết loại trừ TNHS, các tình khác như tình tiết chưa đủ tuổi

trách nhiệm hình sự hay tình tiết trong tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự hay tình tiết sự kiện bất ngờ là các tình tiết phản ánh hành vi thiếu dấu hiệu của tội phạm (dấu hiệu về chủ thể hoặc dấu hiệu về lỗi) và do vậy vấn đề TNHS không được đặt ra. Câu hỏi được đặt ra là tại sao các tình tiết loại trừ TNHS lại có thể làm mất trách nhiệm hình sự mặc dù chủ thể đã có hành vi gây thiệt hại và hành vi này đã được quy định trong luật hình sự?

Xét về mặt khách quan, người được loại trừ trách nhiệm hình sự đã có hành vi khách quan gây thiệt hại cho xã hội và hành vi này được quy định trong luật hình sự. Xét về mặt chủ quan, họ cũng thấy trước khả năng gây ra thiệt hại. Tuy nhiên, động cơ thực hiện các hành vi này không phải là động cơ phạm tội mà là động cơ có ích và mục đích hướng tới không phải là gây thiệt hại mà cũng là lợi ích chung, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác. Ví dụ: Trường hợp phải gây thiệt hại cho kẻ tấn công để bảo vệ chính mình hay người khác là trường hợp mà hành vi gây thiệt hại có động cơ và mục đích như vậy. Chính động cơ và mục đích này đã loại trừ trách nhiệm hình sự. Do đó, phòng vệ được coi là một tình tiết loại trừ TNHS. Như vậy, trong trường hợp có tình tiết loại trừ TNHS, chủ thể tuy lựa chọn hành vi gây thiệt hại nhưng không phải là lựa chọn xử sự trái với đòi hỏi của xã hội mà là lựa chọn hành vi cần thiết và phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Điều này cũng có nghĩa, chủ thể không có lỗi (theo đúng nghĩa) đối với hành vi khách quan đã gây thiệt hại.

Cũng như trách nhiệm hình sự, các tình tiết loại trừ TNHS cũng cần phải được luật hóa để đảm bảo nguyên tắc pháp chế. Cơ sở của TNHS phải được luật quy định. Điều này cũng đòi các tình tiết cụ thể cũng như các dấu hiệu của các tình tiết đó cũng phải được luật quy định. Việc được quy định này chính là cơ sở pháp lý cho phép cá nhân được thực hiện hành vi gây thiệt hại mà bình thường là tội phạm. Đây cũng là lý do giải thích tại sao có tác giả gọi các tình tiết này là các căn cứ hợp pháp của hành vi gây thiệt hại.

Từ các phân tích khái quát trên, có thể rút ra các đặc điểm cơ bản của các tình tiết loại trừ TNHS như sau:

* Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự luôn gắn với hành vi gây thiệt hại có dấu hiệu về hình thức của một tội phạm.

Hành vi đã thực hiện khi có tình tiết loại trừ TNHS là hành vi về mặt hình thức đã thỏa mãn các dấu hiệu của một CTTP hay nói cách khác hành vi đã là hành vi phạm tội nếu giả sử không có tình tiết này. Cụ thể:

- Chủ thể đã thực hiện hành vi có tính gây thiệt hại và hành vi này đã được mô tả trong một CTTP. Trong đó, hành vi được coi là biểu hiện cơ bản nhất trong mặt khách quan của CTTP, đã “làm biến đổi tình trạng của đối tượng tác động và do vậy là nguyên nhân gây thiệt hại cho quan hệ xã hội là khách thể của tội phạm” [15, tr.63];

- Khi thực hiện hành vi đó, chủ thể nhận thức được tính gây thiệt hại và thấy trước hậu quả thiệt hại mà hành vi có thể gây ra cho các quan hệ xã hội và

- Chủ thể thực hiện là người có đủ điều kiện về chủ thể.

Như vậy, xét về về tổng thể, hành vi đã thực hiện là hành vi có đủ dấu hiệu của một CTTP. Nếu không xét đến sự có mặt của tình tiết loại trừ TNHS thì hành vi đã cấu thành một tội phạm cụ thể. Ví dụ: Tội cố ý gây thương tích hay tội giết người hay tội hủy hoại tài sản v.v…

* Tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự là tình tiết làm cho hành vi gây thiệt hại mất tính nguy hiểm của một tội phạm.

Hành vi gây thiệt hại khi có tình tiết loại trừ TNHS tuy về hình thức thỏa mãn các dấu hiệu của một CTTP nhưng xét trong mối quan hệ với tình tiết loại trừ TNHS thì hành vi đó không có tính nguy hiểm của tội phạm. Các tình tiết này tuy khác nhau nhưng đều gắn với động cơ và mục đích của hành vi đã thực hiện. Động cơ thúc đẩy là vì lợi ích chung hoặc lợi ích chính đáng của cá nhân được xã hội chấp nhận; mục đích không phải để gây thiệt hại mà để bảo vệ hoặc mang lại lợi ích chung. Chính tính chất đặc biệt và phù hợp với đòi hỏi của xã hội, được xã hội chấp nhận của động cơ và mục đích của

hành vi như vậy đã làm mất đi tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại. Ví dụ: Việc chọn và thực hiện hành vi gây thương tích cho người khác trong điều kiện bình thường là trường hợp cố ý gây thương tích và có thể cấu thành tội cố ý gây thương tích nhưng khi gắn với tình tiết “phòng vệ” nhằm ngăn chặn hành vi tấn công, bảo vệ tính mạng người khác thì hành vi gây thương tích không còn tính nguy hiểm cho xã hội. Động cơ ngăn chặn sự tấn công và mục đích bảo vệ tính mạng con người đã loại trừ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thương tích. Việc gây thiệt hại trong những trường hợp với động cơ, mục đích như vậy được coi là hành vi có ích, được xã hội chấp nhận và do vậy không thể là hành vi tội phạm để buộc chủ thể phải chịu TNHS.

* Các tình tiết loại trừ TNHS được quy định trong luật hình sự

Hai đặc điểm nêu trên là đặc điểm về nội dung nhưng chỉ với hai đặc điểm đó thì các tình tiết loại trừ TNHS chưa thể là cơ sở pháp lý cho việc loại trừ TNHS. Các tình tiết này phải được luật hóa, phải được quy định rõ ràng trong luật và khi đó các quy định này mới là căn cứ hợp pháp của các hành vi gây thiệt hại.

Việc phải xác định các tình tiết nào là tình tiết loại trừ TNHS và các dấu hiệu cụ thể của từng tiết để quy định trong luật là cần thiết để đảm bảo nguyên tắc pháp chế và qua đó bảo đảm tính thống nhất trong nhận thức và áp dụng các tình tiết này.

Việc các tình tiết này được quy định trong luật hình sự không chỉ là xác định các tình tiết loại trừ TNHS cụ thể mà quan trọng hơn là xác định rõ ràng cơ sở cũng như phạm vi được phép thực hiện hành vi gây thiệt hại hoặc có thể gây thiệt hại, hay nói cách khác là phải xác định rõ các dấu hiệu của từng tình tiết loại trừ TNHS. Việc xác định tình tiết loại trừ TNHS cụ thể và dấu hiệu của từng tình tiết đó phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia.

Từ các phân tích trên có thể định nghĩa các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự như sau: Các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự là các tình tiết

16

được luật hình sự quy định mà khi có một trong những tình tiết đó thì người đã thực hiện hành vi gây thiệt hại có dấu hiệu của tội phạm được loại trừ trách nhiệm hình sự vì hành vi của họ không có tính nguy hiểm của tội phạm.

1.1.3. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc quy định các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự

Theo Từ điển Tiếng Việt, từ „cơ sở” được hiểu là “cái làm nền tảng trong quan hệ với những cái được xây dựng trên nó hoặc dựa trên nó mà tồn tại, phát triển” [23, tr.215]. Nếu cho rằng cơ sở của TNHS là việc cá nhân thực hiện một hành vi mà luật hình sự quy định là tội phạm thì cơ sở làm loại trừ TNHS của các tình tiết loại trừ trách nhiệm hình sự chính là động cơ có ích – vì lợi ích của Nhà nước, lợi ích của tổ chức, lợi ích chính đáng của mình hoặc của người khác đã làm đi mất tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi gây thiệt hại.

Việc quy định các tình tiết loại trừ TNHS trong BLHS là vô cùng quan trọng, nó tạo cơ sở pháp lý cho người dân được quyền hành động để bảo vệ lợi ích chính đáng của mình hay của người khác, bảo vệ lợi ích của Nhà nước cũng như của tổ chức; đồng thời, nó động viên quần chúng nhân dân tích cực tham gia công tác đấu tranh chống tội phạm, tích cực, tự giác bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính đáng của công dân.

Như đã phân tích ở trên, các tình tiết loại trừ TNHS về hình thức đã có những dấu hiệu của tội phạm. Tuy nhiên, không phải bất kì hành vi nào thỏa mãn các dấu hiệu của tội phạm cũng làm phát sinh TNHS. Hành vi được biểu hiện ra bên ngoài thế giới khách quan có thể giống nhau nhưng diễn biến tâm lý bên trong của người thực hiện hành vi trong từng hoàn cảnh cụ thể lại rất phức tạp. Đặc biệt, đối với những hành vi mặc dù xét về hình thức đã hội đủ các yếu tố CTTP nhưng do mục đích, động cơ của người thực hiện hành vi là nhằm bảo vệ lợi ích của xã hội, của người khác hoặc lợi ích hợp pháp của chính bản thân mình thì những hành vi đó cần được loại trừ TNHS. Chẳng hạn như: trong trường hợp PVCĐ, TTCT, hay bắt giữ người phạm tội...., rõ

17

ràng hậu quả gây thiệt hại không phải là mong muốn của chủ thể. Việc lựa chọn hành vi gây thiệt hại trong những trường hợp này xuất phát từ động cơ nhằm bảo vệ các lợi ích hợp pháp khác và quan trọng hơn là cần thiết và phù hợp với lợi ích chung của xã hội. Vì vậy, nó được coi là những tình tiết loại trừ TNHS đối với người thực hiện hành vi gây thiệt hại đó. Do vậy, BLHS cần thiết phải qui định các tình tiết loại trừ TNHS để tạo cơ sở pháp lý cho người dân được hành động, được gây thiệt hại nhất định vì lợi ích chung, vì bảo vệ những quan hệ xã hội đã được pháp luật bảo vệ. Chỉ trên cơ sở pháp luật ghi nhận chính thức (về mặt pháp lý) công dân được phép làm gì (cũng như không được phép làm gì) thì khi đó người dân mới dám thực hiện hành vi pháp luật cho phép, mới xử sự trên cơ sở qui định pháp luật. Khi quyền lợi chính đáng của mình được bảo vệ, được ghi nhận chính thức trong luật, người dân mới dám chống trả lại hành vi đang xâm hại lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, lợi ích chính đáng của mình hay của người khác, mới dám “cống hiến” và góp sức để phát triển xã hội. Bên cạnh đó, đối với người thi hành công vụ, trong quá trình thực thi nhiệm vụ của mình, việc gây thiệt hại nhất định vì lợi ích chung cũng vẫn phải trên cơ sở qui định của pháp luật, không được trái pháp luật. Mặc dù đây là những hành vi có ích cho xã hội, tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là công dân “tùy tiện” muốn làm gì thì làm. Pháp luật đòi hỏi họ phải thực hiện hành vi có ích trên cơ sở qui định của pháp luật. Trong một xã hội mà “tinh thần thượng tôn pháp luật” là tối cao thì điều này lại càng có ý nghĩa.

Trên thực tế, tình hình tội phạm ở nước ta nói riêng cũng như trên thế giới nói chung diễn ra ngày càng phức tạp. Hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, của xã hội, của tập thể, của công dân có xu hướng ngày càng gia tăng. Công cuộc đấu tranh chống tội phạm muốn hiệu quả đòi hỏi phải có sự tham gia tích cực của đông đảo người dân trong xã hội. Tuy nhiên, chúng ta có thể thấy hiện tượng nhiều người dân thường có thái độ bàng quan, thờ ơ khi chứng kiến tội phạm xảy ra (như trông thấy tên lưu manh đang trộm cắp,


18

Xem tất cả 93 trang.

Ngày đăng: 14/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí