Yêu Cầu Về Vốn Tối Thiểu Theo Hiệp Ước Vốn Basel I, Basel Ii, Basel Ii


vốn hơn yêu cầu như là một tín hiệu cho thị trường về tính lành mạnh và an toàn của ngân hàng, cũng như tín hiệu cho thấy ngân hàng có khả năng huy động vốn với lãi suất thấp hơn vì lý do cạnh tranh. Bên cạnh đó, ngân hàng nắm giữ vốn nhiều hơn mức yêu cầu như một cách bảo hiểm, tránh các chi phí liên quan đến kỷ luật thị trường và sự can thiệp giám sát nếu tỷ lệ vốn của ngân hàng tiệm cận tỷ lệ vốn tối thiểu theo quy định (Furfine, 2001).

Như vậy, yêu cầu về vốn là biện pháp quan trọng để hạn chế rủi ro trong hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là rủi ro đạo đức, là sự gắn kết vốn của các cổ đông ngân hàng với rủi ro của ngân hàng. Cho phép cơ quan quản lý kiểm soát việc lựa chọn danh mục đầu tư của ngân hàng. Tuy nhiên, việc kiểm soát lựa chọn danh mục đầu tư của ngân hàng phụ thuộc vào khả năng của cơ quan quản lý trong việc đánh giá rủi ro và “ khẩu vị” rủi ro của ngân hàng. Do đó, quy định về vốn cần phải đảm bảo kỷ luật thị trường, tức là yêu cầu về vốn phải được theo dõi, giám sát chặt chẽ. Ngân hàng sẽ bị phạt nếu vi phạm yêu cầu về vốn và hình phạt phải đủ nặng để có thể giảm rủi ro danh mục đầu tư.

2.1.4.2. Hiệp ước vốn Basel

Để bảo vệ người gửi tiền khỏi hậu quả của việc quản lý danh mục đầu tư mạo hiểm, không an toàn của các ngân hàng và để ngăn chặn những bất ổn phát sinh từ HTNH, tạo sân chơi bình đẳng cho các ngân hàng trên thế giới trước xu thế quốc tế hoá trong hoạt động ngân cũng như tránh khuyến khích các ngân hàng dịch chuyển sang các quốc gia khác để tận dụng các quy định lỏng lẻo, cần phải có những tiêu chuẩn chung thống nhất giữa các quốc gia đối với các yêu cầu về vốn ngân hàng và thông lệ giám sát. Đó là lý do vì sao Uỷ ban về giám sát ngân hàng được thành lập và ban hành các Hiệp ước về vốn ngân hàng.

Uỷ ban về giám sát ngân hàng được thành lập vào cuối năm 1974, bởi một nhóm các Ngân hàng trung ương và Cơ quan giám sát của 10 nước công nghiệp lớn nhất thế giới – G10, tại thành phố Basel, Thuỵ Sỹ được gọi Uỷ ban về các quy định hoạt động ngân hàng và thông lệ giám sát, sau này được đổi tên là Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng.

Mục tiêu của Uỷ ban Basel là xây dựng và công bố những tiêu chuẩn về vốn ngân hàng và giám sát hoạt động ngân hàng nhằm đảm bảo việc thực hiện các tiêu chuẩn về vốn ngân hàng. Tuy nhiên, việc thực hiện các tiêu chuẩn về vốn theo Hiệp ước vốn Basel không mang tính pháp lý, không bắt buộc các quốc gia phải tuân thủ. Mặc dù vậy, Hiệp ước vốn Basel đã trở thành chuẩn mực quốc tế áp dụng trong hoạt động giám sát ngân hàng của các quốc gia trên thế giới, nhằm mục tiêu đảm bảo an


toàn và lành mạnh trong hoạt động của HTNH. Mức độ áp dụng chuẩn mực Basel ở mỗi quốc gia tuỳ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Hiện tại, Uỷ ban Basel đã đưa ra 3 hiệp ước về vốn: Basel I; Basel II và Basel III.

- Hiệp ước vốn Basel I (BIS, 1999):

Hiệp ước vốn Basel I được Uỷ ban Basel ban hành vào năm 1988, nhằm mục đích tăng cường sự ổn định của HTNH và giảm thiểu sự khác biệt trong cạnh tranh quốc tế giữa các ngân hàng.

Basel I đưa ra định nghĩa về vốn ngân hàng. Xét theo khả năng thanh toán và mức độ tin cậy của nguồn vốn trong việc ứng phó với rủi ro, vốn ngân hàng gồm: vốn cấp 1, vốn cấp 2 và vốn cấp 3 (như đã trình bày trong mục 2.1.1.1).

Basel I phân nhóm tài sản theo các hệ số rủi ro: 0%; 20%; 50% và 100%. Mức độ rủi ro của tài sản được đo lường căn cứ vào tài sản đảm bảo và nhóm khách hàng. Ban đầu yêu cầu về vốn tối thiểu trong Basel I chỉ tính tới rủi ro tín dụng. Bản sửa đổi Basel I vào năm 1996, yêu cầu về vốn tối thiểu đã tính tới cả rủi ro thị trường.

Theo Basel I, vốn ngân hàng được phân chia theo 5 mức như sau (Casu et al., 2015):

Thứ nhất, mức vốn tốt phải đảm bảo: (i) Tỷ lệ tổng vốn trên tổng tài sản điều chỉnh theo hệ số rủi ro tối thiểu là 10% và (ii) Tỷ lệ vốn cấp 1 trên tổng tài sản điều chỉnh theo hệ số rủi ro tối thiểu là 6% .

Thứ hai, mức vốn đủ đảm bảo an toàn phải đảm bảo: (i) Tỷ lệ tổng vốn trên tổng tài sản điều chỉnh theo hệ số rủi ro tối thiểu là 8%, (ii) tỷ lệ Vốn cấp 1 trên tổng tài sản điều chỉnh theo hệ số rủi ro tối thiểu là 4%.

Thứ ba, mức vốn không đảm bảo tiêu chuẩn an toàn là: Không thể đáp ứng một hoặc nhiều mức tối thiểu về mức vốn an toàn.

Thứ tư, mức vốn bị thiếu hụt đáng kể: Tỷ lệ tổng vốn trên tổng tài sản điều chỉnh theo hệ số rủi ro dưới 6%, tỷ lệ vốn cấp 1 trên tổng tài sản điều chỉnh theo hệ số rủi ro dưới 3%.

Thứ năm, mức vốn quá thấp: [(Vốn cổ phần thường + cổ phiếu ưu đãi vĩnh viễn

- Tài sản vô hình) / tổng tài sản] = <2%

Như vậy, theo Basel I, để đảm bảo an toàn và lành mạnh trong hoạt động các NHTM phải duy trì tỷ lệ tổng vốn trên tổng tài sản điều chỉnh theo hệ số rủi ro hay còn gọi là tỷ lệ an toàn vốn – CAR ở mức tối thiểu 8% và tỷ lệ vốn cấp 1 trên tổng tài sản điều chỉnh theo hệ số rủi ro còn gọi là tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 là tối thiểu là 4%.

Có thể thấy, theo Basel I, quy định về tỷ lệ vốn chủ yếu là mức vốn đảm bảo rủi ro tín dụng. Điều này là hoàn toàn phù hợp khi hoạt động của ngân hàng chủ yếu là hoạt động nhận tiền gửi và cho vay. Tuy nhiên, hoạt động ngân hàng ngày càng phát


triển đa dạng. Chính vì vậy, nếu yêu cầu về vốn chỉ đảm bảo rủi ro tín dụng là chưa phù hợp.

Công thức tính CAR theo Basel I:



CAR


=

Vốn cấp 1 + Vốn cấp 2 – Các khoản giảm trừ



8%

∑(Tài sản * hệ số rủi ro)

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 160 trang tài liệu này.

Các nhân tố tác động tới an toàn vốn của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam - 6


Sau một thời gian áp dụng, cho thấy, quy định về vốn theo Basel I đã không còn phù hợp với thực tế hoạt động ngân hàng, không bao trùm các rủi ro cơ bản trong hoạt động của ngân hàng; các hệ số rủi ro phản ánh không chính xác mức độ rủi ro... Chính vì vậy, để khắc phục hạn chế của Basel I, Uỷ ban Basel đã đưa ra Hiệp ước Basel II.

- Hiệp ước vốn Basel II (BIS, 2006):

Hiệp ước vốn Basel II được Uỷ ban Basel về giám sát ngân hàng ban hành vào tháng 5/2004, có hiệu lực từ năm 2007 và kết thúc thời gian chuyển đổi đến năm 2010. Basel II được đưa ra nhằm mục đích: (i) thúc đẩy an toàn và lành mạnh trong hoạt động của các NHTM; (ii) xác định yêu cầu về vốn dựa trên một phép đo chính xác và toàn diện hơn về rủi ro; (iii) duy trì sân chơi bình đẳng trong hoạt động của các NHTM trên thị trường quốc tế và (iv) cho phép thống nhất áp dụng chuẩn mực về vốn trong phạm vi quốc tế.

Basel II đưa ra ba trụ cột cơ bản có tác động hỗ trợ lẫn nhau, trong đó: (i) Trụ cột 1 – Yêu cầu vốn tối thiểu; (ii) Trụ cột 2 – Quy trình rà soát, giám sát quá trình đánh giá nội bộ về mức độ an toàn vốn; (iii) Trụ cột 3 – yêu cầu về công khai thông tin tăng cường kỷ luật thị trường.

Các định nghĩa về vốn trong Basel II không thay đổi so với Basel I. Các tỷ lệ vốn tối thiểu mà Basel II đưa ra vẫn tương tự Basel I (tỷ lệ an toàn vốn cấp 1 tối thiểu là 4%; và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8%. Tử số để tính các tỷ lệ vốn vẫn bao gồm vốn cấp 1 và vốn cấp 2.

Tuy nhiên, mẫu số để tính các tỷ lệ vốn trong Basel II có sự thay đổi đáng kể so với Basel I: (i) các hệ số xác định mức độ rủi ro tín dụng của tài sản chặt chẽ và với tỷ lệ cao hơn, tuỳ thuộc tài sản đảm bảo, độ nhạy cảm rủi ro của tài sản đảm bảo, hệ số tín nhiệm của từng khách hàng, hệ số rủi ro được mở rộng từ 0-150%; (ii) mẫu số tính CAR còn bao gồm vốn yêu cầu cho rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động.

Phương pháp đo lường rủi ro tín dụng trong hiệp ước vốn Basel II phức tạp hơn so với Basel I. Theo Basel II, các ngân hàng có thể lựa chọn phương pháp tiêu chuẩn hoặc phương pháp xếp hạng tín dụng nội bộ để xác định mức độ rủi ro tín dụng. Phương pháp tiêu chuẩn là phương pháp đo lường mức độ rủi ro tín dụng dựa trên xếp


hạng tín dụng của tổ chức độc lập bên ngoài ngân hàng được cơ quan giám sát ngân hàng chấp thuận. Phương pháp xếp hạng tín dụng nội bộ là phương pháp đo lường mức độ rủi ro tín dụng dựa trên đánh giá của ngân hàng bằng cách ước lượng xác xuất vỡ nợ, tổn thất vỡ nợ, dư nợ tại thời điểm khách hàng không trả được nợ và kỳ hạn trả nợ dự kiến.

Công thức CAR theo Basel II là:



CAR


=

Vốn cấp 1 + Vốn cấp 2 – Các khoản giảm trừ



8%

∑(Tài sản * hệ số rủi ro) + (Rủi ro thị trường + Rủi ro hoạt động)*12,5


Như vậy, có thể thấy so với cách tính CAR trong Basel I thì cách tính CAR trong Basel II chặt chẽ hơn, phản ánh mức độ rủi ro tín dụng chính xác hơn và bao quát được loại rủi ro cơ bản của ngân hàng. Tuy nhiên, sau khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008-2010 cho thấy, Basel II vẫn chưa đủ mạnh để các NHTM có thể chống đỡ trước hàng loạt các rủi ro. Do đó, tháng 9/2010, Ủy ban Basel đã ban hành Hiệp ước vốn Basel III thay thế cho Basel II.

- Hiệp ước vốn Basel III (BIS, 2011):

Hiệp ước vốn Basel III được ban hành năm 2010 và hiệu lực từ năm 2013, kết thúc thời gian chuyển đổi vào năm 2019. Về cơ bản các quy định trong Basel III vẫn kế thừa các quy định của Basel II nhưng chú trọng nâng cao chất lượng vốn ngân hàng, tăng tỷ trọng vốn cấp 1. Cụ thể:

+ Đối với vốn cổ phiếu thường: Các NHTM phải nâng tỷ lệ vốn cổ phiếu thường từ 2% theo quy định của Basel II lên mức 4,5% theo quy định của Basel III. So với Basel I và Basel II, theo quy định của Basel III các NHTM phải bổ sung thêm: “đệm” dự phòng bằng vốn cổ phiếu thường với tỷ lệ 2,5% và “đệm” chống rủi ro chu kỳ bằng vốn cổ phiếu thường với tỷ lệ từ 0 – 2,5%.

+ Nếu không tính đến “đệm” dự phòng thì tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu vẫn là 8%.

+ Basel III xem xét tác động của nhiều yếu tố rủi ro tới an toàn vốn của ngân hàng so với Basel II (xem xét rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động), Basel I (xem xét rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường): rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro hoạt động, rủi ro thanh khoản và rủi ro chu kỳ.

Căn cứ vào những nội dung cơ bản về các Hiệp ước Basel như đã trình bày, có thể đưa ra bảng so sánh về các quy định trong Hiệp ước vốn Basel I, Basel II, Basel III như sau:


Bảng 2.1 Yêu cầu về vốn tối thiểu theo Hiệp ước vốn Basel I, Basel II, Basel II

Yêu cầu vốn

“Đệm” vốn đảm bảo

an toàn vĩ mô

Vốn chủ sở hữu

Vốn cấp 1

Tổng

vốn

“Đệm” vốn chống rủi

ro chu kỳ

Tối

thiểu

“Đệm”

dự trữ

Yêu

cầu

Tối

thiểu

Yêu

cầu

Tối

thiểu


Basel I

-

-

-

4%

-

8%

-

Basel II

2%

-

-

4%

-

8%

-

Basel III

4.5%

2.5%

7%

6%

8.5%

10.5%

0% - 2.5%

Các loại rủi ro

Basel I

Basel II

Basel III

1. Rủi ro tín dụng

2. Rủi ro thị trường

1. Rủi ro tín dụng

2. Rủi ro thị trường

3. Rủi ro hoạt động

1. Rủi ro tín dụng

2. Rủi ro thị trường

3. Rủi ro hoạt động

4. Rủi ro thanh khoản

5. Rủi ro chu kỳ

Nguồn: Tổng hợp của tác giả từ Casu et al.(2015)

2.2. Các nhân tố tác động tới an toàn vốn

Thực tế cho thấy các ngân hàng thường giữ nhiều vốn hơn mức tối thiểu bắt buộc. Bởi quan điểm về đánh giá rủi ro của ngân hàng thường khác với các nhà quản lý. Trong sự cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận, ngân hàng thiết lập mức vốn thích hợp, tùy thuộc vào “khẩu vị” rủi ro của từng ngân hàng. Ngân hàng có thể thích giữ nhiều vốn hơn vốn yêu cầu như là một tín hiệu đối với thị trường cho thấy tính lành mạnh khả năng cạnh tranh của ngân hàng.

Các ngân hàng cũng có thể giữ các bộ “đệm” như bảo hiểm để tránh các chi phí liên quan đến kỷ luật thị trường và sự can thiệp giám sát nếu CAR của ngân hàng tiệm cận CAR tối thiểu hoặc như là “đệm” để hấp thụ suy thoái kinh tế. Quyết định về mức vốn đối với rủi ro của các ngân hàng như một chiến lược tài chính tối ưu, các bộ “đệm” cho phép ngân hàng khai thác các cơ hội đầu tư bất ngờ và các lý do khác dựa trên sự đánh giá độc lập của ngân hàng (Wong et al., 2005).

Như vậy, các quyết định về vốn ngân hàng cũng tương tự như các doanh nghiệp do yêu cầu của thị trường, tuy nhiên, khác với các doanh nghiệp, quyết định về vốn ngân hàng còn phụ thuộc vào yêu cầu về vốn của các cơ quan quản lý, khả năng cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận, đồng thời phụ thuộc vào “khẩu vị” rủi ro của từng ngân hàng. Chính vì vậy, an toàn vốn ngân hàng chịu tác động bởi các nhân tố từ chính ngân hàng (nhân tố vi mô) và nhân tố vĩ mô nền kinh tế.


2.2.1. Các nhân tố vi mô

CAR của ngân hàng không chỉ phụ thuộc vào CAR tối thiểu theo quy định mà còn phụ thuộc vào mục tiêu vốn của ngân hàng. Do đó, các nhân tố từ chính ngân hàng có vai trò quan trọng trong việc xác định CAR của ngân hàng. Các ngân hàng có thể tăng CAR bằng cách tăng vốn; bằng cách giảm các tài sản rủi ro; bằng cách giảm tổng tài sản…

2.2.1.1. Mức độ rủi ro của tổng tài sản

Theo Asarkaya & Özcan (2007), một trong những yếu tố quan trọng có ảnh hưởng mang tính quyết định tới vốn ngân hàng là rủi ro mà các ngân hàng đã thực hiện. Các quy định pháp lý liên quan đến vốn mà các ngân hàng phải duy trì cũng phụ thuộc vào mức độ rủi ro của ngân hàng. Lý do chính là vì vốn được xem như lá chắn chống lại những tổn thất bất ngờ và phá sản. Thông thường, khi mức độ rủi ro danh mục đầu tư tăng đòi hỏi mức vốn cao hơn. Tuy nhiên, có sự khác biệt giữa nhận thức về rủi ro của các ngân hàng và cơ quan giám sát, điều này có thể khiến mối quan hệ này trở nên tiêu cực. Bên cạnh đó, bảo hiểm tiền gửi cũng có thể làm tăng sự chấp nhận rủi ro của các ngân hàng (Alfon et al., 2004). Kết quả nghiên cứu thực nghiệm của Alfon et al. (2004); Bokhari & Ali (2012); Shaddady & Moore (2015); Aspal et al. (2014) cho thấy mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa rủi ro danh mục đầu tư và CAR.

Mặt khác, theo Kleff & Weber (2003), rủi ro danh mục đầu tư và CAR cũng có thể có mối quan hệ tỷ lệ thuận vì: theo lý thuyết người đại diện, các nhà quản lý (không phải là chủ sở hữu ngân hàng) thường lo ngại về khả năng phá sản (vì khi đó họ sẽ mất việc làm), do đó nhà quản lý có xu hướng giảm tỷ lệ đòn bẩy khi rủi ro tăng, vì vậy tăng CAR. Mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa mức độ rủi ro của tài sản và CAR ngân hàng được chứng minh qua nghiên cứu thực nghiệm của Kleff & Weber (2003); Asarkaya & özcan (2007); Gropp & Heider (2007).

Mức độ rủi ro của tài sản được đo bằng Tỷ lệ tài sản rủi ro (RAR). Lý do sử dụng Tỷ lệ tài sản rủi ro là rủi ro danh mục đầu tư được xác định chủ yếu bằng việc phân bổ tài sản trong các loại rủi ro khác nhau. Một lợi thế rõ ràng của Tỷ lệ tài sản rủi ro là chỉ tiêu này phản ánh những quyết định của ngân hàng đối với việc chấp nhận rủi ro (Shrieves & Dahl, 1992). Tuy nhiên, chỉ tiêu này có phản ánh chính xác mức độ rủi ro của ngân hàng hay không phụ thuộc vào việc xác định các tài sản rủi ro và các trọng số rủi ro của từng loại tài sản khác nhau (Rime, 2001).


RAR= Tài sản Có rủi ro/Tổng Tài sản


Trong đó, tuỳ thuộc vào cách tính CAR, tổng tài sản có rủi ro có thể được xác

định như sau:

- Nếu CAR tính theo Basel I: Tổng tài sản có rủi ro được xác định bằng tổng tài sản điều chỉnh theo rủi ro tín dụng.

- Nếu CAR tính theo Basel II, Basel III: Tổng tài sản có rủi ro được xác định bằng tổng tài sản có điều chỉnh theo rủi ro tín dụng cộng với 12,5 lần rủi ro thị trường và cộng với 12,5 lần rủi ro hoạt động.

2.2.1.2. Cho vay

Cho vay là một trong những hoạt động quan trọng của các NHTM. Cho vay là khoản mục tài sản chủ yếu đem lại thu nhập từ lãi cho vay cho các ngân hàng. Tuy nhiên, hoạt động cho vay cũng lại là hoạt động có mức độ rủi ro cao. Hoạt động cho vay có thể đem lại những tổn thất cho ngân hàng do các khoản nợ xấu. Tác động của khoản cho vay tới an toàn vốn của các ngân hàng có thể được xem xét thông qua chỉ tiêu tỷ trọng cho vay trong tổng tài sản.

Tỷ trọng cho vay trong tổng tài sản (LAR) được sử dụng để đo lường tác động của quy mô các khoản cho vay trong danh mục đầu tư tài sản, phản ánh mức độ đa dạng hoá của các tài sản và cơ hội đầu tư của ngân hàng. LAR cũng được sử dụng như một chỉ số rủi ro của ngân hàng. Khi LAR tăng nghĩa là mức độ rủi ro trong hoạt động cho vay tăng lên, vì vậy ngân hàng cần tăng vốn để đảm bảo an toàn cho người gửi tiền (Shrieves & Dahl (1992), Büyüksalvarci & Abdioğlu, (2011)). LAR được xác định như sau:

LAR= Tổng Dự nợ cho vay/ Tổng tài sản

Có thể, tồn tại mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa CAR và LAR nếu mức độ rủi ro của các khoản cho vay được các nhà quản lý ngân hàng ước tính cao hơn so với các tiêu chuẩn quy định. Nghĩa là, khi LAR tăng, mức độ rủi ro của tài sản tăng, các nhà quản lý tăng vốn ngân hàng cao hơn mức cần thiết theo tiêu chuẩn quy định, điều đó làm CAR của ngân hàng tăng. Tuy nhiên, khi LAR tăng nếu vốn ngân hàng không thay đổi hoặc tăng chậm sẽ làm CAR của ngân hàng giảm (De Bondt & Prast, 1999).

Ngược lại, yêu cầu về vốn cao hơn cũng sẽ ảnh hưởng tới việc cung cấp tín dụng của ngân hàng đối với nền kinh tế (đặc biệt là các nền kinh tế có hệ thống tài chính phụ thuộc hoặc bị chi phối bởi HTNH). Trong môi trường hạn chế vốn, khi yêu cầu về vốn cao hơn, các ngân hàng sẽ phân bổ ít tài sản cho các khoản cho vay, bởi các khoản cho vay có trọng số rủi ro cao, điều này làm giảm nguồn cung tín dụng. Tuy nhiên, đối với các ngân hàng có CAR cao, yêu cầu về vốn sẽ ít tác động đến tăng


trưởng tín dụng (Thampy, 2004). Điều này cho thấy, có thể tồn tại mối quan hệ tỷ lệ thuận hoặc mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa LAR và CAR.

Cụ thể, các nghiên cứu thực nghiệm của Büyüksalvarci & Abdioğlu (2011); Bokhari & Ali (2012); Aspal et al. (2014); Dreca (2013) cho thấy mối quan hệ tỷ lệ nghịch giữa CAR và LAR. Trong khi đó, Mpuga (2002); Bateni et al. (2014); lại cho thấy có mối quan hệ tỷ lệ thuận giữa CAR và LAR.

2.2.1.3. Nợ xấu

Nợ xấu là các khoản cho vay mà người vay không thực hiện thanh toán theo hợp đồng trong một thời gian xác định trước. Các khoản cho vay được phân loại là nợ xấu không nhất thiết dẫn đến thua lỗ của ngân hàng, nếu có đủ tài sản thế chấp, các khoản lỗ có thể không xảy ra. Ngược lại, các khoản vay có thể bị mất ngay cả khi chúng không được phân loại là nợ xấu. Nợ xấu cho thấy chất lượng của các khoản cho vay của ngân hàng. Nợ xấu càng cao thì chất lượng của các khoản cho vay càng thấp và làm giảm khả năng an toàn vốn của các NHTM và ngược lại.

Định nghĩa về nợ xấu có sự khác biệt giữa các quốc gia, thậm chí có thể có các định nghĩa khác nhau được sử dụng trong một quốc gia tùy thuộc vào ngành liên quan. Theo hướng dẫn của IMF về các chỉ số tài chính thì nợ xấu được định nghĩa là: Nợ xấu là khoản cho vay trong đó các khoản thanh toán lãi và gốc quá hạn từ 90 ngày trở lên, hoặc ít nhất 90 ngày kể từ khi khoản lãi được vốn hoá, tài trợ hoặc trì hoãn theo thoả thuận, hoặc quá hạn thanh toán dưới 90 ngày nhưng có những lý do khác để nghi ngờ rằng khoản thanh toán sẽ không được thực hiện đầy đủ (Casu et al., 2015).

Theo Gorter & Bloem (2001), các vấn đề liên quan đến nợ xấu có thể ảnh hưởng đến tất cả các ngành, tác động nghiêm trọng đối với các TCTD có danh mục cho vay lớn. Nợ xấu lớn sẽ ảnh hưởng đến khả năng cung cấp tín dụng của các ngân hàng. Các khoản nợ xấu có thể dẫn đến sự mất mát của người gửi tiền và dẫn tới tình trạng các nhà đầu tư rút vốn khỏi ngân hàng, dẫn đến các vấn đề về thanh khoản. Vì vậy, quy định về CAR tối thiểu nhằm mục đích đảm bảo các NHTM có khả năng bù đắp cho những tổn thất từ hoạt động cho vay. Bên cạnh đó, quy định về CAR tối thiểu tác động tới hành vi rủi ro của các ngân hàng. Vì vậy có sự liên quan giữa CAR và nợ xấu.

Theo thông tư 02/2013/TT-NHNN (NHNN, 2013a) “Nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5. Tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ là tỷ lệ để đánh giá chất lượng tín dụng của tổ chức tín dụng”.

Tỷ lệ nợ xấu là định nghĩa phổ biến nhất về các khoản vay có vấn đề trong cả lý thuyết và thực tiễn. Tỷ lệ nợ xấu ít phụ thuộc vào quy định hơn các chỉ tiêu khác phản

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/11/2022