Các Nhân Tố Tác Động Đến Nợ Xấu Tại Ngân Hàng Thương Mại:


Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng đã quá thời hạn thu hồi trên 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được;

Nợ của khách hàng là tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước công bố đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, chi nhánh ngân hàng nước ngoài bị phong tỏa vốn và tài sản;

Phân loại nợ theo phương pháp định tính:


- Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi đúng hạn.

- Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ.

- Nhóm 3 (Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là không có khả năng thu hồi nợ gốc và lãi khi đến hạn. Các khoản nợ này được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là có khả năng tổn thất.

- Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là có khả năng tổn thất cao.

- Nhóm 5 (Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.

Như vậy, nợ xấu theo quan điểm của NHNN Việt Nam cũng được xác định trên hai yếu tố: đã quá hạn trên 90 ngày hoặc khả năng trả nợ đáng lo ngại.

1.1.2. Tác động của nợ xấu:

Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Nam Á - 3


Tỷ lệ nợ xấu cao nếu không kiểm soát và xử lý kịp thời thì hậu quả xấu của nó gây ra đối với bản thân các ngân hàng và đối với nền kinh tế là rất lớn.


1.1.2.1. Tác động đến doanh nghiệp:


Nợ xấu sẽ làm cho doanh nghiệp không đủ điều kiện để ngân hàng tiếp tục cho vay, dẫn đến thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, buộc doanh nghiệp phải duy trì quy mô sản xuất cầm chừng, công nghệ thấp, sản lượng sẽ thấp. Chi phí gia tăng, trong khi năng suất lại thấp, doanh nghiệp càng thêm khó khăn để duy trì việc kinh doanh của mình. Thêm vào đó sức cạnh tranh trên thị trường lại giảm, doanh nghiệp có thể phải tạm ngừng hoạt động hoặc phá sản, giải thể.

1.1.2.2. Tác động đến hoạt động của ngân hàng thương mại

- Giảm lợi nhuận của ngân hàng:

Nợ xấu phát sinh làm cho các khoản chi phí tăng lên đáng kể: chi phí trả lãi tiền gửi, chi phí quản lý nợ xấu, chi phí trích lập dự phòng rủi ro và các chi phí khác liên quan. Việc gia tăng các chi phí này làm giảm lợi nhuận, thậm chí gây lỗ cho các ngân hàng khi hạch toán kết quả kinh doanh.

- Ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của ngân hàng:


Vì không thu hồi được các khoản vay, nợ xấu làm chậm quá trình luân chuyển vốn của ngân hàng. Trong khi đó ngân hàng vẫn phải trả vốn và lãi cho các khoản tiền huy động, điều này khiến cho ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ mất khả năng thanh toán.

- Giảm uy tín của ngân hàng: Khi một ngân hàng có mức độ rủi ro của các tài sản có cao thì ngân hàng đó thường đứng trước nguy cơ mất uy tín của mình trên thị trường. Không một ai muốn gửi tiền vào ngân hàng mà có tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu vượt mức cho phép. Thông tin về ngân hàng có mức độ rủi ro cao lan truyền nhanh trong dân chúng, điều này làm cho uy tín của ngân hàng trên thị trường bị giảm mạnh, việc thu hút thêm khách hàng mới và giữ chân khách hàng cũ sẽ trở nên khó khăn, gây sự bất lợi trong hoạt động cạnh tranh với các ngân hàng khác.


1.1.2.3. Tác động đến nền kinh tế:


Đối với nền kinh tế, tác động của nợ xấu là tác động gián tiếp thông qua mối quan hệ: ngân hàng – khách hàng – nền kinh tế. Vì vậy nợ xấu ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh của ngân hàng sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của nền kinh tế.

- Nợ xấu gia tăng sẽ tạo ra gánh nặng ngân sách trong vấn đề xử lý nợ xấu. Nợ xấu tăng cao thì kinh phí để xử lý lấy ở đâu nếu các ngân hàng không thể đứng ra tự xử lý, nên việc xử lý có thể phải trông cậy vào ngân sách Nhà nước. Mặc dù, nguồn vốn để xử lý nợ xấu chủ yếu từ quỹ dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng, nhưng với dư nợ xấu cao như hiện nay thì sẽ ảnh hưởng lớn đến ngân sách Nhà nước. Trong khi đó, các nguồn thu ngân sách đang ngày càng khó khăn do sự đình trệ của nền kinh tế. Về dài hạn, nếu việc xử lý nợ xấu gây ra bội chi ngân sách sẽ tiềm ẩn rủi ro lạm phát, gây bất ổn nền kinh tế.

- Khi nợ xấu gia tăng sẽ gây đình trệ nền kinh tế. Nợ xấu gia tăng, ngân hàng phải trích lập dự phòng rủi ro, do đó lượng vốn đưa vào lưu thông bị hạn chế. Nếu nợ xấu tăng quá cao, ngân hàng không được phép cho vay dẫn đến dòng vốn vào nền kinh tế bị nghẽn lại, các thành phần khác của nền kinh tế như doanh nghiệp, hộ sản xuất,… cũng không thể tiếp tục kinh doanh. Từ đó ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển nền kinh tế, sản xuất kinh doanh đình trệ.

- Nợ xấu tăng sẽ đe dọa an toàn hoạt động của cả hệ thống ngân hàng, nếu không được xử lý kịp thời, nợ xấu sẽ gây ra sự đổ vỡ của một số ngân hàng yếu kém, khi đó nó có thể gây ra tác động lan truyền đến cả hệ thống ngân hàng, gây mất niềm tin của người dân, của nhà đầu tư, của doanh nghiệp và các tổ chức quốc tế. Nghiêm trọng hơn nó có thể sẽ dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống tài chính quốc gia.

1.2. Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại ngân hàng thương mại:


Hoạt động ngân hàng là hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian, vì vậy hoạt động của NHTM phụ thuộc vào nhiều yếu tố: môi trường pháp lý, môi trường


kinh tế cũng như môi trường thiên nhiên, tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, đạo đức khách hàng và các yếu tố thuộc về chính bản thân ngân hàng…

Qua tham khảo các nghiên cứu trước đây ở các nước và tại Việt Nam, tác giả đúc kết được những nhóm nhân tố sau tác động đến nợ xấu của ngân hàng nói chung như sau:

- Nhóm nhân tố từ phía khách hàng

- Nhóm nhân tố tự bản thân ngân hàng gồm: hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ, áp lực chỉ tiêu, thiếu kiểm tra, kiểm soát tín dụng, công tác thẩm định giá TSĐB chưa được quan tâm đúng mức, năng lực và đạo đức của cán bộ tín dụng, chính sách tín dụng, công tác dự báo rủi ro

- Nhân tố từ môi trường kinh doanh và chính sách của Nhà nước

1.2.1. Nhóm nhân tố từ phía khách hàng:


Sự yếu kém trong hoạt động kinh doanh của khách hàng:


Năng lực tài chính của doanh nghiệp không cao ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả kinh doanh. Mặt khác, năng lực điều hành và quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp vay vốn yếu kém cũng dẫn đến hoạt động kinh doanh kém hiệu quả từ đó ảnh hưởng đến khả năng trả nợ ngân hàng

Đạo đức khách hàng:


Một số doanh nghiệp cố ý thông báo số liệu tài chính của doanh nghiệp không chính xác đã gây sai lệch trong việc thẩm định và cấp tín dụng, dẫn đến khó khăn trong việc thu hồi nợ của ngân hàng. Hoặc bản thân doanh nghiệp thiếu ý thức trong vấn đề sử dụng vốn vay và trả nợ, không quan tâm đến món nợ đối với ngân hàng, thiếu thiện chí trả nợ mặc dù khả năng tài chính của doanh nghiệp có. Một số doanh nghiệp lại cố tình lừa đảo, chiếm đoạt vốn của ngân hàng bằng cách lập đủ hồ sơ vay vốn, trả nợ rất tốt để tạo uy tín, sau đó đề nghị vay với số tiền lớn hơn, và sử dụng sai mục đích, đến kỳ hạn trả nợ thì mất khả năng thanh toán cho ngân hàng.


1.2.2. Nhóm nhân tố từ bản thân ngân hàng:

Chính sách tín dụng: Một chính sách tín dụng không đầy đủ, không đồng bộ và thống nhất sẽ dẫn tới việc cấp tín dụng không đúng đối tượng, tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cho ngân hàng. Mặt khác trước áp lực kinh doanh và cạnh tranh gay gắt, để thu hút khách hàng, nhiều NHTM đã bỏ qua một số bước trong quy trình tín dụng, cơ chế cho vay được đơn giản hóa, tự ý hạ thấp tiêu chuẩn đánh giá khách hàng, điều này dẫn đến rủi ro cao và nợ xấu là điều khó tránh khỏi.

Quy trình cho vay: Quy trình cho vay là hướng dẫn nội bộ của Ngân hàng về thủ tục, trình tự công việc cụ thể cần thực hiện trong quá trình tiếp nhận hồ sơ vay, xét duyệt cho vay, phát triển vay, kiểm tra sử dụng vốn vay và thu hồi nợ vay. Nếu quy trình cho vay không chặt chẽ sẽ dễ dẫn đến tình trạng cán bộ sẽ không thực hiện đầy đủ các bước và những thủ tục cần thiết khi quyết định cho vay, như vậy các khoản vay sẽ tiềm ẩn nguy cơ rủi ro rất cao. Ngoài ra, quy trình cho vay không có sự phân cấp kiểm soát tín dụng , không có bộ phận quản trị rủi ro. Một bộ phận thậm chí là một cán bộ tín dụng thực hiện toàn bộ chức năng thẩm định, cho vay, thu nợ và quản lý rủi ro cũng sẽ làm quá tải và tăng nguy cơ xảy ra rủi ro đạo đức ở cán bộ tín dụng.

Hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ: Gần như toàn bộ các ngân hàng tại Việt Nam sử dụng cùng mô hình Xếp hạng tín dụng nội bộ tương tự nhau, vốn đã được triển khai từ bốn đến năm năm trước đây. Mô hình rất giống nhau áp dụng tại hầu hết các ngân hàng mặc dù ngành ngân hàng trong nước phân loại thành nhiều nhóm ngân hàng khác nhau. Vì vậy không thể sử dụng cùng một mô hình cho một ngân hàng quốc doanh lớn và ngân hàng cổ phần nhỏ bởi vì các ngân hàng này có chiến lược phát triển và nhóm đối tượng khách hàng khác nhau.

Ngoài ra, các ngân hàng hiện không có các mô hình xếp hạng tín dụng nội bộ thiết kế riêng cho khách hàng Doanh nghiệp Vừa và Nhỏ (SME) hoặc tổ chức tài chính (FI) và không có sự liên kết giữa xếp hạng tín dụng và định giá. Các mô hình này cần được điều chỉnh phù hợp với khẩu vị rủi ro và chiến lược của ngân hàng.


Công tác thẩm định TSĐB chưa được quan tâm đúng mức:


Hiện nay, hầu hết các khoản cấp tín dụng của các NHTM là phải có TSĐB, nhu cầu vay vốn ngày càng tăng dẫn đến số lượng hồ sơ cần thẩm định giá ngày càng nhiều, tuy nhiên thời hạn thực hiện một hồ sơ định giá lại ngắn. Vừa phải khảo sát thực tế, vừa ra kết quả đã dẫn đến cán bộ TĐG không còn đủ thời gian để kiểm tra đầy đủ các thông tin về TSĐB như thông tin quy hoạch, môi trường xung quanh,.... dẫn đến con số định giá có phần sai lệch.

Thiếu công tác định giá lại TSĐB theo định kỳ


Việc định giá lại TSĐB theo định kỳ trong 3 tháng, 6 tháng tiếp theo cũng không được tuân thủ chặt chẽ. Thường thì CBTD hay CBTĐ 12 tháng mới định giá lại TSĐB. Tuy nhiên vì TSĐB đa phần là bất động sản, nên việc định giá lại là rất quan trọng. Trong tình hình nền kinh tế suy thoái và thị trường bất động sản trầm lắng như hiện nay, giá trị của TSĐB sẽ giảm sút một cách đáng kể. dẫn đến xảy ra rủi ro cho ngân hàng , làm phát sinh nợ xấu.

Áp lực chỉ tiêu:


Khi các đơn vị kinh doanh của ngân hàng (chi nhánh, phòng giao dịch) bị áp lực về chỉ tiêu cho vay/ giải ngân thì việc phê duyệt hồ sơ cũng khá dễ dãi, việc này dẫn đến nguy cơ xảy ra nợ xấu cao.

Thiếu kiểm tra, giám sát sau cho vay:


Việc kiểm tra tình hình sử dụng vốn của khách hàng rất quan trọng, không chỉ trước, trong mà còn sau cho vay. Công tác giám sát món vay xem khách hàng có sử dụng đúng mục đích hay không; và công tác đánh giá lại định kỳ về khách hàng, khoản vay, tài sản thế chấp là rất cần thiết để hạn chế phát sinh nợ quá hạn. Tuy nhiên trên thực tế, không phải trường hợp nào CBTD cũng kiểm tra đúng quy định, hoặc việc kiểm tra chỉ mang tính chất thủ tục nên không phát hiện được những dấu hiệu bất thường trong hoạt động của khách hàng, làm tăng rủi ro xảy ra nợ xấu


Đạo đức và năng lực của CBTD:


CBTD là đầu mối tiếp xúc với khách hàng, nắm bắt đặc điểm cũng như chất lượng khách hàng và khoản vay. Điều này đòi hỏi cán bộ phải có kiến thức, kinh nghiệm làm việc cũng như khả năng phân tích, dự báo… Nếu CBTD trình độ yếu kém sẽ không đánh giá được hết các khả năng rủi ro liên quan đến khoản vay sẽ dẫn đến quyết định cho vay sai lầm và nguy cơ phát sinh nợ xấu rất cao.

Bên cạnh đó, vấn đề đạo đức của CBTD cũng rất quan trọng, một số CBTD sa sút về phẩm chất, đạo đức nghề nghiệp đã lợi dụng công việc được giao để móc ngoặc với con nợ, lợi dụng kẽ hở của luật pháp để làm lợi cho bản thân, gây thiệt hại về tài sản và tiền vốn, gây rủi ro cao cho ngân hàng.

Năng lực điều hành của ban lãnh đạo ngân hàng:


Ban lãnh đạo cần có khả năng phân tích và dự báo chính xác những thay đổi trong môi trường kinh doanh trong tương lai, từ đó xây dựng các chiến lược, chính sách, kế hoạch kinh doanh phù hợp thực tiễn và đặc điểm của ngân hàng mình. Thêm vào đó, việc quản lý con người cần được quan tâm đúng mức, nếu buông lỏng quản lý, khoán trắng mọi việc cho CBTD sẽ dẫn đến chất lượng tín dụng kém.

1.2.3. Nhân tố từ môi trường kinh doanh và chính sách của Nhà nước:

Tốc độ tăng trưởng kinh tế: Khi nền kinh tế sụt giảm, thu nhập của doanh nghiệp và hộ gia đình giảm nên họ gặp khó khăn trong việc hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Kinh tế sụt giảm thể hiện qua sự sụt giảm của GDP.

Tỷ giá, lãi suất, lạm phát: sự thay đổi về lãi suất, tỷ giá ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động của các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp khiến các đối tượng này rơi vào thế bị động, do đó nó gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng nợ của các đối tượng này tại ngân hàng. Cũng tương tự khi lạm phát tăng cao dẫn đến sức mua thấp, hàng tồn kho cao, dẫn đến tình trạng ứ đọng vốn, kết quả là giảm khả năng trả nợ.

Môi trường pháp lý: môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng chưa đầy đủ là nguyên nhân góp phần gây ra nợ xấu.


Cơ chế chính sách của Nhà nước: Những gói kích thích kinh tế, hỗ trợ lãi suất,.. sẽ giúp các doanh nghiệp hoạt động tốt hơn.

Những thay đổi trong chính sách thuế hay các quy định về kinh doanh bất động sản… sẽ khiến cho doanh nghiệp khó có thể chủ động trong chiến lược kinh doanh của mình.

Môi trường thiên nhiên: Thiên tai, bão lụt, dịch bệnh… là những nguyên nhân khách quan do sự biến đổi của môi trường thiên nhiên gây ra sự hoạt động thất bại của khách hàng vay, đặc biệt là các khoản cho vay nông, lâm, ngư nghiệp dẫn đến nợ xấu phát sinh. Nhân tố này nằm ngoài tầm kiểm soát và mong muốn của cả ngân hàng và các khách hàng vay. Đây là rủi ro không thể tránh được.

1.3. Các nghiên cứu trước đây‌

1.3.1. Nghiên cứu thực nghiệm ở các nước:


Trên thế giới đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu về các nhân tố tác động đến nợ xấu của ngân hàng. Như:

Bercoff và cộng sự (2002) kiểm tra hệ thống ngân hàng Argentina trong giai đoạn 1993 – 1996, họ cho rằng tỷ lệ nợ xấu bị ảnh hưởng bởi cả hai nhân tố: đặc trưng riêng của ngân hàng và nhân tố kinh tế vĩ mô. Để tách các tác động của đặc trưng ngân hàng và nhân tố kinh tế vĩ mô, các tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích sự kiện.

Sử dụng mô hình dữ liệu bảng trong giai đoạn từ 1985- 1997 để kiểm định các yếu tố quyết định đến vấn đề cho vay của hệ thống ngân hàng thương mại và ngân hàng tiết kiệm Tây Ban Nha, Salas và Saurina (2002) khám phá ra tốc độ tăng trưởng thực trong GDP, tăng trưởng tín dụng nhanh, quy mô ngân hàng, tỷ lệ vốn và sức mạnh thị trường có thể giải thích được sự thay đổi trong tỷ lệ nợ xấu.

Jimenez và Saurina (2005) sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính đơn giản để xác định các yếu tố tác động đến tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng ở Tây Ban Nha trong giai đoạn 1984- 2003. Họ cung cấp bằng chứng cho thấy nợ xấu được

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/03/2023