chính, khả năng trả nợ khách hàng. Nâng cao hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ theo quy định và nâng dần theo chuẩn quốc tế, tiến hành phân loại nợ và trích lập dự phòng theo quy định không sử dụng các biện pháp kỹ thuật để làm giảm nợ xấu tạm thời, tuy trước mắt việc trích lập dự phòng làm giảm lợi nhuận ngân hàng nhưng đây là biện pháp nhằm nâng cao năng lực tài chính giúp ngân hàng có khả năng chống đỡ khi gặp khó khăn nhất là trong bối cảnh chịu áp lực của việc sáp nhập, hợp nhất và phá sản ngân hàng trong giai đoạn hiện nay.
Kiểm soát chi phí dự phòng rủi ro tín dụng
Theo kết quả nghiên cứu thì chi phí dự phòng rủi ro tín dụng có tác động cùng chiều đối với tỷ lệ nợ xấu.Đồng thời khi chi phí dự phòng rủi ro tín dụng tăng lên thì cũng tác động làm giảm lợi nhuận của ngân hàng.Để có thể giảm chi phí dự phòng rủi ro tín dụng thì ngân hàng nên ưu tiên cho những khoản vay có tài sản đảm bảo có tính thanh khoản tốt,giá trị tài sản đảm bảo cao.Khi xảy ra nợ xấu thì việc xử lý tài sản cũng nhanh hơn,hạn chế khả năng mất vốn cho ngân hàng.
Bảo đảm tiền vay bằng tài sản là hình thức bảo đảm mà ngân hàng áp dụng đối với khách hàng vay vốn, trong đó ngân hàng được hưởng một số quyền hạn nhất định đối với tài sản của khách hàng vay. Như vậy, việc bảo đảm tiền vay bằng tài sản giúp cho ngân hàng tránh được rủi ro mất hoàn toàn vốn, đồng thời đem lại cho ngân hàng quyền ưu tiên khi phát mại tài sản so với các chủ nợ khác của khách hàng nếu khách hàng vay không có khả năng trả được các khoản nợ đã vay.
Tăng tỷ suất sinh lợi trên vốn chủ sở hữu ROE
Theo kết quả nghiên cứu thì ROE có tác động ngược chiều với tỷ lệ nợ xâu.Khi ROE tăng thì tỷ lệ nợ xấu có xu hướng giảm nên ngân hàng cần tìm các biện pháp để gia tăng ROE của ngân hàng đồng thời cũng đảm bảo về mặt quản trị rủi ro tín dụng.Bên cạnh việc gia tăng ROE thì Vietcombank cũng cần gia tăng vốn chủ sở hữu, xây dựng lộ trình tăng vốn điều lệ cho phù hợp với điều kiện hoàn cảnh thực tế tại Việt Nam đảm bảo Vietcombank đủ sức cạnh tranh và hội nhập với thị trường tài chính quốc tế.Bên cạnh
đó thì vốn chủ sở hữu được xem như là tấm đệm cho ngân hàng khi ngân hàng gặp khó khăn về mặt tài chính.Vì vậy lộ trình tăng vốn chủ sở hữu là rất cần thiết và cấp bách trong bối cảnh hiện nay.
Nâng cao năng lực quản lý cho nhà lãnh đạo ngân hàng và trình độ chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức nghề nghiệp cho cán bộ ngân hàng
Ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam cần liên tục nâng cao chất lượng nguồn lực con người trong hoạt động của mình,đổi mới và kiện toàn công tác nhân sự: nhân sự là một yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển của hệ thống các ngân hàng nói chung và Vietcombank nói riêng. Một đội ngũ cán bộ không có hoặc hạn chế về trình độ, yếu kém về đạo đức thì sẽ khó lòng đưa ngân hàng phát triển theo đúng mục tiêu, định hướng đã đề ra. Do đó, Vietcombank cần đặc biệt quan tâm đến công tác cán bộ, điều đó cần được thực hiện từ khâu tuyển dụng, đào tạo đến khâu bổ nhiệm cán bộ, làm sao để xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ năng lực trình độ, có bản lĩnh và đạo đức nghề nghiệp.
Để thực hiện được điều này trước tiên những nhà quản trị ngân hàng Vietcombank cần chủ động nâng cao khả năng quản lý, am hiểu về thị trường và về quy luật hoạt động của thị trường. Nắm vững kiến thức chuyên môn nhằm giám sát hiệu quả hoạt động của các phòng ban nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản trị.Ngoài ra Vietcombank cần nâng cao công nghệ ngân hàng hiện đại hơn,phát triển các dịch vụ ngân hàng điện tử theo hướng hiện đại đồng thời tăng tính bảo mật thông tin của khách hàng…
Tỷ lệ nợ xấu năm trước
Theo kết quả nghiên cứu thì tỷ lệ nợ xấu năm trước cũng tác động cùng chiều đến tỷ lệ nợ xấu hiện tại.Tỷ lệ nợ xấu năm trước như một chỉ số để dự đoán nợ xấu trong tương lai , chính vì vậy các nhà quản trị ngân hàng có thể sử dụng chỉ số này để dự đoán mức độ nợ xấu tiềm tang trong tương lai từ đó đưa ra các chính sách để quản trị rủi ro nợ xấu tốt hơn.
5.2 Kinh nghiệm xử lý nợ xấu của một số nước trên thế giới
5.2.1 Kinh nghiệm của Hàn Quốc
Tình hình nợ xấu tại Hàn Quốc trong cuộc khủng hoảng tài chính châu Á năm 1997 Những yếu kém trong cấu trúc của nền kinh tế Hàn Quốc là vốn dựa quá nhiều vào việc mở rộng thị trường và vay mượn, cộng với việc dòng vốn nước ngoài bị các nhà đầu tư nước ngoài rút ra trong cuộc khủng hoảng tiền tệ năm 1997 đã dẫn tới cuộc khủng hoảng tín dụng và sau đó là khủng hoảng tiền tệ tại quốc gia này.Tính đến cuối tháng 3/1998, tổng nợ xấu của các tổ chức tài chính (TCTC) của Hàn Quốc lên tới 118 nghìn tỷ Won(18% tổng dư nợ), chiếm tới 27% GDP.
Mô hình xử lý nợ xấu tại Hàn Quốc – KAMCO và KDIC
Chính phủ Hàn Quốc đã quyết định nợ xấu cần được xử lý ngay lập tức bằng 2 biện pháp: (1) Buộc các tổ chức tín dụng phải sử dụng vốn để xử lý một nửa giá trị các khoản nợ xấu bằng việc yêu cầu các khách hàng trả nợ hoặc bán tài sản thế chấp; (2) Để Công ty Quản lý Tài sản Hàn Quốc (Korean Asset Management Corporation- KAMCO) mua lại một nửa các khoản nợ xấu.
KAMCO, tiền thân là công ty con của Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc, đã được cải tiến lại chức năng và nhiệm vụ thành cơ quan chuyên giải quyết nợ xấu thông qua Đạo luật quản lý hiệu quả nợ xấu của các TCTC và sự thành lập Cơ quan quản lý tài sản Hàn Quốc (the KAMCO Act). Chủ sở hữu của KAMCO là Bộ Tài chính và Kinh tế, Ngân hàng Phát triển Hàn Quốc và các TCTC khác, được quản lý bởi ban điều hành là các đại diện đến từ các chủ sở hữu cộng thêm đại diện từ Ủy ban Giám sát Tài chính, Công ty Bảo hiểm Tiền gửi, Hiệp hội các ngân hàng và 3 chuyên gia độc lập, hoạt động dưới sự giám sát của Ủy ban Giám sát tài chính.
Để thực hiện quá trình xử lý nợ xấu, Chính phủ Hàn Quốc đã áp dụng tiêu chuẩn phân loại nợ quốc tế để đánh giá thực trạng nợ xấu của các TCTC ở mức độ thắt chặt hơn nữa. Chính phủ Hàn Quốc đã huy động tới 157 nghìn tỷ Won. Trong số này, 60 nghìn tỷ Won được sử dụng để bơm vốn thêm vào cho các TCTC, 39 nghìn tỷ Won được sử dụng để
mua các khoản nợ xấu từ các TCTC, 26 nghìn tỷ Won để trả cho người gửi tiền của các TCTC bị vỡ nợ.
Vai trò của KAMCO trong xử lý nợ xấu
KAMCO tiến hành đánh giá kỹ lưỡng các khoản nợ và ưu tiên mua các khoản nợ mà có thể dễ dàng chuyển giao quyền thu nợ, giúp các TCTC khôi phục lại hoạt động và hình ảnh trước công chúng, và các khoản cho vay đồng tài trợ. Các khoản nợ do KAMCO mua lại được chia thành 6 nhóm tương ứng với mức giá so với giá trị từng khoản vay được phân nhóm. Khoản nợ xấu được định giá dựa trên khả năng thu hồi nợ, tài sản bảo đảm và phương pháp định giá được thay đổi tùy theo từng thời kỳ. Sau khi mua lại, KAMCO nhóm các khoản nợ xấu này lại để phát hành các chứng khoán có đảm bảo bằng tài sản dựa trên các khoản nợ xấu đã mua hoặc bán cho các nhà đầu tư thông qua đấu giá quốc tế cạnh tranh. Luật Chứng khoán có bảo đảm bằng tài sản đã được ban hành để thúc đẩy việc bán các khoản nợ cho các công ty có chức năng chứng khoán hóa các khoản xấu và bán lại cho các nhà đầu tư.
Bên cạnh đó, KAMCO cũng tịch thu tài sản thế chấp của các khoản nợ có đảm bảo để bán thu hồi lại tiền. KAMCO nắm giữ các khoản nợ xấu và cố gắng tái cơ cấu nợ, tái tài trợ hay chuyển đổi nợ thành vốn chủ sở hữu nếu công ty đó có khả năng hồi phục, giảm lãi suất, giãn nợ… Ngoài ra, còn có các biện pháp khác như truy đòi lại chủ nợ ban đầu của khoản nợ xấu, bán khoản nợ cho các công ty quản lý tài sản, công ty tái cơ cấu doanh nghiệp để mua lại cổ phiếu của các công ty này và tiến hành tái cơ cấu lại hoạt động của công ty… Trong khoảng thời gian từ năm 1997 đến 2002, KAMCO đã thu hồi được 30,3 nghìn tỷ Won, tương ứng với tỷ lệ thu hồi là 46,8% trên giá trị khoản nợ.
Kết quả đạt được
Nhờ sử dụng đồng loạt các biện pháp xử lý nợ xấu, tỷ lệ nợ xấu đã giảm từ 17,7% vào năm 1998 xuống còn 14,9%, 10,4%, 5,6%, và 3,9% vào các năm 1999, 2000, 2001 và 2002. Hàn Quốc đã thực hiện thành công việc giải quyết nợ xấu, tái cơ cấu doanh nghiệp, tái cơ cấu khu vực tài chính góp phần ổn định nền kinh tế là do Chính phủ Hàn Quốc đã
có những can thiệp nhanh chóng, kịp thời và toàn diện, triển khai các biện pháp xử lý nợ xấu hợp lý khi đưa KAMCO vào hoạt động và phát triển thị trường thứ cấp cho các khoản nợ xấu, các chứng khoán được bảo đảm bằng nợ xấu được tiến hành giao dịch thuận lợi, thu hút các nhà đầu tư.
5.2.2 Kinh nghiệm của Trung Quốc
Tình hình nợ xấu tại Trung Quốc
Nợ xấu của Trung Quốc chính là cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, khi hoạt động của các NHTM Nhà nước lớn chỉ như những cơ quan hành chính Nhà nước, có nhiệm vụ cho vay theo chỉ định cho các công ty và dự án Nhà nước vốn làm ăn kém hiệu quả, thậm chí thua lỗ. Những khoản vay này cũng không qua quy trình phân tích tín dụng chặt chẽ nên rủi ro tín dụng là điều không tránh khỏi.
Mô hình xử lý nợ xấu tại Trung Quốc:
Quá trình xử lý nợ xấu ở Trung Quốc gắn trực tiếp với các biện pháp cải cách được thực hiện bởi Chính phủ nhằm chuyển đổi nền kinh tế Trung Quốc từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế kinh tế thị trường cũng như quá trình tái cấu trúc các doanh nghiệp Nhà nước (DNNN) và hệ thống tài chính. Quá trình xử lý nợ xấu của Trung Quốc có thể chia thành ba giai đoạn chính.
Giai đoạn thứ nhất, giữa những năm 1990 diễn ra quá trình tái cấu trúc tài chính nhằm chuyển đổi hệ thống ngân hàng, cụ thể là tách cho vay chính sách khỏi cho vay thương mại bằng cách thành lập 3 ngân hàng chính sách chịu trách nhiệm xử lý các khoản vay chính sách. 4 NHTM Nhà nước lớn của Trung Quốc bắt đầu sử dụng cách phân loại nợ thành 5 nhóm theo cách chia của BIS, thay vì 4 nhóm như trước đây, thực hiện phê duyệt tín dụng một cách độc lập với ít can thiệp hành chính từ phía chính quyền địa phương hơn.
Giai đoạn thứ hai, bắt đầu từ năm 1999 đến năm 2003, đánh dấu bằng sự thành lập của 4 công ty quản lý tài sản được Chính phủ tài trợ (Asset Management Corporation- AMC), mỗi công ty tương ứng với một trong số 4 NHTM Nhà nước lớn (chiếm tới 70% tổng tài
sản của hệ thống ngân hàng), nhằm giải quyết những khoản nợ xấu của 4 ngân hàng này từ trước năm 1996 và trách nhiệm của 4 AMC này là phải xử lý hết các khoản nợ xấu này trong vòng 10 năm. Các AMC đã sử dụng nhiều biện pháp để xử lý nợ xấu bao gồm thanh lý tài sản, bán tài sản trực tiếp cho các nhà đầu tư và chứng khoán hóa những khoản nợ xấu này. Việc xử lý nợ xấu của Trung Quốc còn gắn liền với tái cơ cấu DNNN nên các AMC cũng có vai trò trong quá trình tái cơ cấu DNNN thông qua các biện pháp hoán đổi nợ thành cổ phần và tái cấu trúc doanh nghiệp. Với quy mô nợ xấu lớn của Trung Quốc, chứng khoán hóa cũng là một cách hiệu quả để xử lý nợ xấu, nghiệp vụ chứng khoán hóa các khoản nợ xấu ở Trung Quốc được thực hiện không chỉ có sự tham gia của các AMC mà còn bởi các NHTM khác với tỷ lệ thu hồi được báo cáo là từ 10-30%. Về hoán đổi nợ thành cổ phần, năm 1999 các AMC đã mua lại các khoản nợ xấu giá trị 405 tỷ NDT của 580 DNNN quy mô lớn và vừa được lựa chọn tại 4 NHTM nhà nước và thực hiện chuyển đổi các khoản nợ phải trả thành cổ phần của AMC trong các doanh nghiệp này. Kết quả là tỷ lệ trung bình các khoản nợ/tài sản trong DNNN tái cấu trúc giảm xuống từ 73% năm 1999 xuống dưới 50% năm 2000 (Ye and Zhai, 2001). Các AMC sẽ tham gia vào quản trị doanh nghiệp, tái cấu trúc doanh nghiệp và khi các doanh nghiệp này hoạt động có lợi nhuận trở lại, các AMC có quyền nhận cổ tức và bán lại cổ phần cho các doanh nghiệp với mức giá thỏa thuận trước trong vòng 10 năm. Hơn nữa, các AMC cũng được ưu tiên rút vốn khỏi các doanh nghiệp này khi niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đây chính là khoản tiền mặt mà các AMC có thể thu hồi được từ nợ xấu thông qua hoán đổi nợ thành cổ phần tại các DNNN.
Giai đoạn thứ ba, Trung Quốc tập trung vào tái cấu trúc các NHTM Nhà nước bằng cách mời gọi sự tham gia của các nhà đầu tư chiến lược nước ngoài có chọn lọc và niêm yết ra công chúng nhằm tăng tính minh bạch và nâng cao năng lực quản trị của 4 NHTM Nhà nước lớn này.
Kết quả:
Chất lượng tài sản tại 4 NHTM Nhà nước được cải thiện đáng kể và đã tiến hành niêm yết ra công chúng sau khi được tái cơ cấu vốn. Tuy nhiên, những khoản nợ xấu này không hề biến mất khỏi hệ thống tài chính Trung Quốc, chúng chỉ được chuyển giao từ một tổ chức này sang một tổ chức khác, những nguy cơ tiềm ẩn gây ra cho hệ thống tài chính Trung Quốc không có nghĩa là được giảm bớt.
5.2.3 Kinh nghiệm của Thái Lan
Tình hình nợ xấu của Thái Lan
Hệ thống tài chính – ngân hàng Thái Lan chịu nhiều ảnh hưởng nặng nề, với nợ xấu liên tục gia tăng và đạt mức cao kỷ lục 46% trên tổng dư nợ tín dụng vào cuối năm 1997.
Mô hình xử lý nợ xấu của Thái Lan
Nhằm củng cố niềm tin của người dân vào hệ thống tài chính, Chính phủ Thái Lan thực hiện cơ chế bảo hiểm tiền gửi toàn bộ vào tháng 8/1997. Chính phủ Thái Lan đã nhanh chóng thực hiện các biện pháp cải cách lĩnh vực tài chính, bao gồm: i) nâng cấp tiêu chuẩn giám sát và quản lý để củng cố các tổ chức tài chính (tháng 3/1998); ii) công bố tái cấu trúc tài chính toàn diện nhằm giải quyết những yếu kém tài chính và cung cấp nguồn lực tái cơ cấu vốn cho các tổ chức tài chính khả thi (tháng 8/1998); iii) củng cố lĩnh vực tài chính; iv) tạo điều kiện tái cấu trúc nợ doanh nghiệp; v) khuyến khích các tổ chức tài chính thành lập công ty mua bán nợ xấu (AMC) để giải quyết tài sản xấu. Cho đến nay, AMC vẫn là một trong những giải pháp hiệu quả.
Cơ chế bảo hiểm tiền gửi toàn bộ
Trong suốt cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á nghiêm trọng này, vào tháng 8/1997, Chính phủ Thái Lan đã công bố cơ chế bảo hiểm tiền gửi toàn bộ cho khách hàng gửi và vay tiền ở những ngân hàng hay tổ chức tài chính bị đóng cửa nhằm bảo vệ quyền lợi khách hàng. Cơ chế bảo hiểm này được thực hiện dưới sự quản lý và hoạt động của Quỹ Phát triển các định chế tài chính (FIDF) - trực thuộc Ngân hàng Trung ương Thái Lan. Từ 11/8/2011, DPA chuyển từ bảo hiểm toàn bộ sang bảo hiểm có hạn mức.
Bảng 5.1: Hạn mức bảo hiểm tiền gửi tại Thái Lan qua các thời kỳ
Hạn mức BHTG | |
11/8/2011 – 10/8/2015 | 50 triệu Baht |
11/8/2015 – 10/8/2016 | 25 triệu Baht |
11/8/2016 trở về sau | 1 triệu Baht |
Có thể bạn quan tâm!
- Biểu Đồ Biểu Diễn Tỷ Suất Sinh Lợi Của Vietcombank Và Tỷ Lệ Nợ Xấu Qua Các Năm 2002-2016
- Biểu Đồ Biểu Diễn Tỷ Lệ Nợ Xấu Năm Trước Của Vietcombank Và Tỷ Lệ Nợ Xấu Qua Các Năm 2002-2016
- Bảng Ma Trận Tương Quan Giữa Các Biến Sau Khi Bỏ Bớt Biến
- Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam - 10
- Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại Thương Việt Nam - 11
Xem toàn bộ 92 trang tài liệu này.
Tái cấu trúc và hợp nhất các tổ chức tài chính
Năm 1997, Chính phủ thành lập Cơ quan tái cấu trúc khu vực tài chính (FRA), yêu cầu các tổ chức tài chính không đủ vốn phải tái cơ cấu hoặc hợp nhất với các tổ chức tài chính khác; cung cấp bảo lãnh đối với tiền gửi và các khoản tín dụng; đầu tư vào các tổ chức tài chính để ổn định hệ thống thanh toán; thanh lý tài sản của các tổ chức tài chính gặp khó khăn thông qua đấu thầu. FRA đã đóng cửa và thanh lý tài sản của 56 tổ chức ngay trong năm 1997.
Thành lập ủy ban tư vấn tái cấu trúc nợ doanh nghiệp
Tháng 6/1998, Chính phủ thành lập Ủy ban Tư vấn tái cấu trúc nợ doanh nghiệp (CDRAC) với nhiệm vụ giám sát tiến độ của quá trình tái cấu trúc nợ doanh nghiệp; xem xét và thiết lập các chính sách tái cấu trúc nợ. CDRAC đóng vai trò là tổ chức trung gian khách quan đứng ra đàm phán nợ giữa khu vực tư nhân và các tổ chức tài chính để thúc đẩy tái cấu trúc nợ nhanh hơn và hiệu quả. Từ giữa năm 1998 đến tháng 9/2003, CDRAC tiếp quản 2,84 nghìn tỷ Baht nợ xấu. Đến cuối năm 2004, CDRAC đã tái cấu trúc thành công tài sản trị giá 1,40 nghìn tỷ Baht.
Thành lập các công ty mua bán nợ xấu AMC nhà nước và tư nhân
Từ năm 1998 đến 2002, các AMC được nhà nước thành lập, sở hữu, được phân quyền quản lý và được FIDF hỗ trợ nguồn lực. Tổng số có 4 AMC do nhà nước nắm giữ là BAM , PAM, SAM và Radhanasin có nhiệm vụ xử lý nợ xấu của 5 ngân hàng lớn thuộc chính phủ. Cùng với các AMC do nhà nước thành lập, các ngân hàng tư nhân cũng hình thành các AMC riêng để chuyển nợ xấu của mình sang các AMC này. Tổng số có 12