CBTD nhanh chóng tiếp cận khách hàng để sớm tìm ra và phân tích nguyên nhân, có biện pháp xử lý không để kéo dài thời gian quá hạn, dẫn đến nguy cơ nợ xấu. Với ý nghĩa là nợ cần chú ý, thời hạn quá hạn dưới 90 ngày hoặc đánh giá theo giá trị nợ gốc, mức độ suy giảm khả năng trả nợ, nợ nhóm 2 được coi như chiếc nhiệt kế đo lường và cảnh báo sớm mức độ rủi ro trong cho vay tại ngân hàng. Yêu cầu dự báo sớm nợ nhóm 2 đòi hỏi là ngân hàng cho vay phải kiểm tra trực tiếp và thu thập thông tin về khách hàng để giải đáp ngay câu hỏi nguyên nhân nào dẫn đến chậm trả lãi và/ hoặc gốc của khách hàng. Nguyên nhân trực tiếp: do lỗ trong sản xuất kinh doanh, do không thu hồi được các khoản phải thu, do mất một phần thị trường, do lô sản phẩm hỏng bán không được, do bị lừa đảo…Nguyên nhân sâu xa do thiếu vốn chủ sở hữu, lỗ kéo dài, dòng ngân quỹ âm, đầu tư tràn lan, sử dụng vốn sai mục đích, dự án kém hiệu quả, mất thị trường đầu vào, đầu ra, năng lực quản lý yếu….Mặt khác CBTD cần xem xét đối với những khoản nợ nhóm 2 quá hạn được khắc phục không quá 30 ngày, nguồn trả nợ thực sự từ vốn kinh doanh lành mạnh thì có thể yên tâm về tình hình tài chính của người vay. Ngược lại nếu việc chậm trả lãi hoặc gốc được xác định là có dấu hiệu, nguyên nhân bất ổn trong kinh doanh thì rõ ràng không còn là tình huống chây ỳ chậm trả lãi tạm thời mà CBTD phải báo cáo lãnh đạo tín dụng và đề xuất xử lý. Lúc này việc phát hiện, dự báo sớm có tác động tích cực cho cả ngân hàng lẫn khách hàng còn kịp thời gian tìm cách khắc phục hay ít nhất không đi sâu vào những khó khăn nhiều hơn nữa. Nếu nợ quá hạn nguyên nhân là do hàng bán không được hoặc thua lỗ trong kinh doanh, ngân hàng cần đưa ra lời cảnh báo để khách hàng tìm nguồn trả nợ, đồng thời soát xét, sửa đổi quyết định kinh doanh nhằm phòng tránh rủi ro. Ngược lại, nếu nợ quá hạn do những khó khăn tài chính sâu xa thì lúc này hai bên cần ngồi lại xem xét về giải pháp trả nợ, thống nhất xử lý nợ toàn diện.
4.2.4 Đào tạo nguồn nhân lực
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực phát triển. Mọi yếu kém, nguyên nhân suy cho cùng là ở vấn đề “con người”. Trong điều kiện kinh tế thị trường, cạnh tranh là
tất yếu thì đội ngũ nhân sự của ngân hàng cần phải có trình độ chuyên môn nghiệp vụ giỏi và phẩm chất đạo đức tốt, có đạo đức nghề nghiệp.
Ngân hàng cần quan tâm đến các vấn đề tuyển dụng, đào tạo, tập huấn trao đổi nghiệp vụ cho cán bộ ngân hàng, Đặc biệt đối với CBTD, cần liên tục nâng cao và cập nhật trang bị kiến thức mới, Do đó các khóa đào tạo nhằm trang bị thêm các kỹ năng phân tích, thẩm định khách hàng, thẩm định dự án, phương án đầu tư là rất cần thiết,
Chỉ tiêu hiệu quả sẽ trở thành thước đo chất lượng hoạt động của từng đơn vị kinh doanh nói chung và từng cán bộ nhân viên nói riêng. Xây dựng chương trình quản lý đánh giá thực hiện công việc (KPIs) là một giải pháp đã được nhiều NHTM thực hiện nhằm làm cơ sở đánh giá nhân viên nhằm có chế độ đãi ngộ phù hợp. Hiện nay việc đánh giá thực hiện công việc của từng cá nhân tại Agribank còn chưa được thực hiện đồng nhất. Mỗi đơn vị kinh doanh đưa ra những chỉ tiêu đánh giá mức độ thực hiện công việc đối với cán bộ nhân viên khác nhau và dựa vào đó có những chế độ đãi ngộ, lương thưởng khác nhau. Việc đánh giá không có sự chỉ đạo thống nhất như vậy dẫn đến quá trình đánh giá năng lực nhân viên thiếu chính xác, ảnh hưởng đến chính sách đãi ngộ và tâm lý cán bộ nhân viên. Thực tế có tình trạng một số cán bộ có kinh nghiệm, năng lực đã công tác lâu năm tại Agribank chuyển sang làm việc tại các NHTMCP khác vì nhận được những chế độ đãi ngộ tốt hơn. Do đó Agribank cần hoàn thiện hệ thống đánh giá năng lực cũng như có chế độ đãi ngộ phù hợp nhằm giữ chân cán bộ cũ và thu hút những nhân sự mới. Ngoài ra với đặc thù ngành ngân hàng thì cần gắn kết trách nhiệm của những người cho vay với chất lượng khoản vay một cách rõ ràng, minh bạch với những hình thức chế tài cụ thể. Cần có chế tài nghiêm khắc đối với những hành vi vi phạm nguyên tắc đạo đức nghề nghiệp. Nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng.
4.2.5 Tăng cường chất lượng hoạt động kiểm tra kiểm soát nội bộ, nâng cao năng lực quản trị hệ thống
Có thể bạn quan tâm!
- Kết Quả Hoạt Động Của Nhno&ptntvn Từ 2008-2013
- Nợ Xấu Của Nhno&ptntvn Từ 2008-2013 Theo Thời Hạn Vay
- Giải Pháp Nhằm Hạn Chế Nợ Xấu Tại Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam
- Các nhân tố tác động đến nợ xấu tại ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam - Lê Nguyễn Đông Uyên - 10
Xem toàn bộ 89 trang tài liệu này.
Agribank cần củng cố hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ, xây dựng hoàn chỉnh các quy trình kiểm tra, có hệ thống giám sát phòng ngừa mọi sai sót cũng như hành vi cố tình vi phạm để bảo đàm tính tuân thủ trên toàn hệ thống.
Hệ thống kiểm tra nội bộ chuyên trách và các cán bộ kiểm tra hoạt động độc lập với các bộ phận khác, được độc lập đánh giá, kết luận, kiến nghị trong hoạt động kiểm tra kiểm soát. Hệ thống kiểm tra phải chịu trách nhiệm trước Ban lãnh đạo ngân hàng về việc kiểm tra giám sát mọi hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng phải bảo đám an toàn.
4.2.6 Phân loại các khoản nợ quá hạn để có các biện pháp xử lý phù hợp
Nợ xấu tại Agribank hiện tại phần lớn là của khách hàng doanh nghiệp, mỗi doanh nghiệp có tình hình hoạt động kinh doanh khác nhau. Vì thế, cần phải có giải pháp cụ thể cho từng khoản nợ quá hạn, từng doanh nghiệp để có thể xử lý tốt nợ xấu,
Đối với các khoản nợ được đánh giá mất hoàn toàn khả năng trả nợ (doanh nghiệp nợ bị phá sản, TSĐB không còn giá trị): Cần xác định rõ trách nhiệm của ngân hàng trong trường hợp này. Ngân hàng phải chấp nhận chịu lỗ, trích dự phòng rủi ro để giải quyết, thậm chí phải cắt lợi nhuận của ngân hàng để bù đắp vào khoản nợ không thể thu hồi này.
Đối với các khoản nợ có TSĐB, khoản nợ doanh nghiệp có khả năng phục hồi nếu có sự hỗ trợ. Trường hợp này ngân hàng có thể tiếp tục cho vay, giảm lãi, cơ cấu lại nợ nếu doanh nghiệp gặp khó khăn tạm thời, đặc biệt là khó khăn thanh khoản. Ngoài ra có thể kết hợp giải pháp chứng khoán hoá nợ xấu và mua bán chứng khoán nợ xấu. Chứng khoán hoá nợ xấu là việc chuyển nợ xấu thành cổ phần hoặc vốn góp có giá trị tương đương. Việc chứng khoán hóa được thực hiện theo các phương pháp cụ thể: Với các doanh nghiệp có lịch sử quan trị kinh doanh tốt, gặp khó khăn về nghĩa vụ trả nợ gốc do tình hình kinh tế khó khăn thì có thể chuyển một phần nợ gốc thành trái phiếu trung hạn nhằm hỗ trợ thanh khoản và giúp các doanh nghiệp tồn tại phát triển. Chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần và các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển.
Đây là hình thức xử lý khá phổ biến theo thông lệ quốc tế. Đối với Việt Nam, từ trước tới nay đã có rất nhiều trường hợp thành công cứu được doanh nghiệp thoát khỏi nguy cơ phá sản và bảo toàn được nguồn vốn của các ngân hàng.
4.2.7 Lập bộ phận chuyên trách xử lý nợ xấu
Hiện nay việc xử lý các khoản nợ xấu vẫn do đơn vị kinh doanh nơi cho vay và quản lý hồ sơ tự thực hiện. Điều này có hạn chế là thiếu sự phối hợp đồng bộ, không sử dụng được sức mạnh của toàn hệ thống. Ngoài ra trình độ am hiểu luật pháp của các cán bộ tại đơn vị kinh doanh còn hạn chế khiến Agribank có thể bị mất quyền lợi khi tham gia giải quyết tranh chấp tại các cơ quan pháp luật.
Ngân hàng cần lập bộ phận chuyên trách xử lý nợ xấu tại Hội sở chính, nằm dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Ban Tổng giám đốc. Bộ phận này tập hợp các cán bộ giàu kinh nghiệm, có chuyên môn giỏi về nghiệp vụ tín dụng, pháp luật nhằm nắm tình hình và chỉ đạo, đôn đốc và hỗ trợ các đơn vị kinh doanh trong quá trình giải quyết nợ xấu. Việc theo dõi và nắm bắt tình hình nợ xấu tại các đơn vị kinh doanh là rất cần thiết nhằm đưa ra chỉ đạo và hỗ trợ kịp thời đối với các khoản nợ phức tạp, dư nợ lớn,... nhằm thu hồi nợ nhanh nhất có thể, đảm bảo các lợi ích cho Agribank.
4.2.8 Đa dạng hóa sản phẩm
Thực trạng của hệ thống ngân hàng Việt Nam nói chung và Agribank nói riêng là quá chú trọng vào hoạt động cho vay, đa phần lợi nhuận của các ngân hàng đều đến từ thu nhập lãi thuần – hoạt động cho vay mà không dành sự quan tâm đáng kể đến đa dạng hóa hoạt động, đến giảm dần tỷ trọng lợi nhuận từ hoạt động tín dụng cho vay, để nâng dần tỷ trọng lợi nhuận thu được từ các dịch vụ ngân hàng phi tín dụng. Ngân hàng cần chú trọng đầu tư và phát triển mảng dịch vụ như ngân hàng điện tử, thẻ, dịch vụ thanh toán, dịch vụ bảo lãnh, dịch vụ chuyển tiền trong và ngoài nước, dịch vụ ngoại hối... Với nền tảng cơ sở vật chất cùng hệ thống các điểm giao dịch rộng khắp cả nước là lợi thế rất lớn để phát triển các dịch vụ ngân hàng, qua đó làm tăng lợi nhuận từ dịch vụ góp phần đa dạng hóa nguồn thu và giảm bớt rủi ro trong hoạt động.
4.2.9 Chính sách chăm sóc khách hàng
Những năm gần đây, thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam có sự phát triển mạnh mẽ về quy mô với sự tham gia của các NHTM nhà nước, NHTM cổ phần, ngân hàng liên doanh, ngân hàng 100% vốn nước ngoài, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các công ty tài chính, cho thuê tài chính và các quỹ tín dụng. Cùng với sự ra đời và mở rộng quy mô của hệ thống ngân hàng Việt Nam là sự cạnh tranh gay gắt nhằm chiếm thị phần, thu hút khách hàng giữa các ngân hàng. Trước mức độ cạnh tranh ngày càng tăng, Agribank cần chú trọng hơn nữa tới chính sách chăm sóc khách hàng, chú trọng tới từng cán bộ nhân viên tầm quan trọng của công tác chăm sóc khách hàng. Chăm sóc khách hàng tốt sẽ làm tăng thiện cảm của khách hàng với ngân hàng, giữ được lượng khách hàng hiện hữu và tăng cơ hội có thêm những khách hàng tiềm năng. Những khách hàng mới do khách hàng cũ giới thiệu đóng vai trò rất quan trọng trong chiến lược phát triển thị trường cũng như mở rộng đối tượng khách hàng một cách ổn định và bền vững.
4.3 Kiến nghị đối với NHNN:
4.3.1 Tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng
NHNN nên tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát hệ thống ngân hàng nhằm đảm bảo an toàn hoạt động cho từng ngân hàng nói riêng cũng như toàn hệ thống ngân hàng nói chung. Các quy định của NHNN ban hành phải được thực hiện một cách nghiêm túc và thống nhất với tất cả các ngân hàng không phân biệt các NHTM cổ phần hay NHTM Nhà nước, NHTM trong nước hay NHTM có vốn nước ngoài, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam. NHNN cần kiểm tra, theo dõi thường xuyên hoạt động các ngân hàng đặc biệt trong lĩnh vực huy động vốn và cho vay, đảm bảo các chính sách của NHNN, của Chính phủ được thi hành nghiêm túc nhằm tham gia hỗ trợ hoàn thành các mục tiêu kinh tế vĩ mô. Qua đó tăng tính minh bạch cũng như niềm tin của người dân vào hệ thống ngân hàng.
Ngoài tăng cường hoạt động thanh tra, giám sát thì NHNN nên có các quy định cụ thể và chế tài xử lý vi phạm để đảm bảo môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân
hàng. Các ngân hàng phải tuân thủ theo cơ chế tín dụng thống nhất của NHNN, không hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng để cạnh tranh, giành giật khách hàng bằng mọi giá, cấp tín dụng những khách hàng yếu kém, sử dụng vốn không hiệu quả, gây tiềm ẩn rủi ro trong hoạt động tín dụng. Tương tự với hoạt động huy động vốn, không được lách trần lãi suất bằng nhiều hình thức như thanh toán lãi ngoài sổ sách, khuyến mại, tặng quà giá trị cho khách hàng,..
NHNN cần đưa ra các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho các ngân hàng cũng như doanh nghiệp đối với các điều kiện và thủ tục cấp tín dụng, cho phép các ngân hàng có thể xem xét giải ngân hỗ trợ cho những doanh nghiệp có nợ xấu nhưng có phương án kinh doanh đảm bảo trả nợ.
4.3.2 Cần cơ chế và khung pháp lý thích hợp cho việc mua bán và xử lý nợ xấu thông qua Công ty mua nợ và quản lý tài sản (VAMC)
Thứ nhất, dựa trên quy chế mua bán nợ được sửa đổi từ phía NHNN, các ngân hàng cần tìm hiểu để áp dụng phù hợp với mục đích của mình, Cần thay đổi quan niệm đang phổ biến hiện nay cho rằng chỉ có nợ xấu mới đưa ra trao đổi, mà nên sử dụng mua bán nợ như là công cụ để thay đổi linh hoạt cơ cấu danh mục, tăng/giảm quy mô dư nợ khi cần thiết,
Thứ hai, củng cố lại chức năng nhiệm vụ của các công ty mua bán và khai thác tài sản tại các NHTM, Khi hành lang pháp lý cho phép, hoạt động của các công ty này không chỉ giới hạn trong xử lý tài sản liên quan đến nợ tồn đọng của ngân hàng mà mở rộng hơn có thể đại diện cho ngân hàng tham gia đàm phán thương lượng liên quan đến mua bán tài sản (trái phiếu, khoản nợ) với mọi đối tác khác nhau trên thị trường, kể cả việc tham gia vào thị trường chứng khoán hoá, vì vậy cần thiết phải củng cố và nâng cao tính chuyên nghiệp của công ty này, nhằm chuẩn bị cho các hoạt động trong thời gian tới,
NHNN chủ trì VAMC do vậy NHNN nên đứng ngoài hệ thống NHTM, để đảm bảo tính khách quan và tránh xung đột lợi ích, Ngoài ra, VAMC cần phải có đủ thực
quyền trong việc xử lý nợ xấu kể cả việc giảm nợ, xoá nợ, giãn nợ, cơ cấu lại nợ, truy đòi bảo lãnh, thanh lý các TSĐB, mà không cần phải có quyết định toà án, và sử dụng những biện pháp pháp lý theo quy định của luật pháp Việt Nam và thông lệ quốc tế, Hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động mua bán nợ và xây dựng thị trường mua bán nợ ở Việt Nam hết sức cần thiết.
Ngoài ra hiện tại VAMC chỉ mua những món nợ trên 1,5 tỷ đồng khiến các ngân hàng có quy mô nhỏ thiệt thòi do các món nợ dưới 1,5 tỷ đồng chiếm số lượng nhiều trong tồng nợ xấu. Vì vậy không nên giới hạn số tiền của từng món nợ VAMC mua mà dựa theo quy mô tài sản, dư nợ từng ngân hàng VAMC sẽ đưa ra tổng nợ xấu sẽ mua trong từng thời điểm.
4.4 Các giải pháp kiến nghị Chính phủ
4.4.1 Hoàn thiện hành lang pháp lý về xử lý nợ của hệ thống ngân hàng
Chính phủ cần tạo hành lang pháp lý để các ngân hàng có quyền tự chủ đứng ra tổ chức bán tài sản thế chấp để thu hồi nợ đối với các khoản nợ quá hạn (theo các điều khoản đã thỏa thuận trong HĐTD). Có các chính sách ưu tiên đối với các khoản nợ khó thu hồi như miễn thuế thu nhập, thuế trước bạ nhà đất khi giao dịch tài sản thành công. Theo quy định hiện nay các loại phí này đều do bên vay chịu, nhưng phần lớn khách hàng không còn khả năng thanh toán nên sẽ trừ vào số tiền thu được từ việc xử lý tài sản thế chấp. Trên thực tế nhiều khoản nợ xấu có giá trị tài sản thế chấp giảm mạnh do diễn biến của thị trường bất động sản nên khi xử lý không đủ thanh toán nợ vay ngân hàng. Do vậy việc miễn một số loại thuế, phí kể trên sẽ san sẻ một phần khó khăn cho người vay cũng như ngân hàng, thúc đẩy các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào thị trường mua bán nợ góp phần xử lý nhanh nợ xấu. Cần xây dựng cơ chế xử lý tài sản thế chấp hiệu quả, tiết kiệm chi phí và công sức cho các bên như: rút gọn thủ tục tố tụng trong giải quyết các vụ kiện liên quan đến xử lý TSĐB, cơ chế thi hành án và thủ tục chuyển quyền sở hữu tài sản nhanh gọn.
Cần đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Thủ tướng Chính phủ ban hành QĐ số 254/QĐ-TTg ngày 01/03/2012 phê duyệt tại đề án 254 “Đề án tái cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015” bao gồm một loạt các biện pháp xử lý nợ xấu như: bán nợ xấu có TSĐB cho DATC, bán nợ xấu cho các DN không phải TCTD, AMC tư nhân và AMC của NHTM, xóa nợ bằng nguồn dự phòng rủi ro, xử lý TSĐB để thu hồi nợ, chuyển nợ thành vốn góp, cổ phần của DN vay, các khoản nợ xấu phát sinh không có TSĐB, không có khả năng thu hồi do thực hiện cho vay theo chỉ đạo hoặc chủ trương, chính sách của Chính phủ sẽ được Chính phủ xoá nợ bằng nguồn ngân sách nhà nước, đối với một số loại công trình sắp hoàn thành hoặc sắp hoàn thành nhưng chưa bán được, Chính phủ xem xét mua lại các bất động sản đó để phục vụ mục đích an sinh xã hội và hoạt động của các cơ quan nhà nước...
Trong các giải pháp thiết thực trên, giải pháp có thể triển khai thực hiện sớm được đó là Chính phủ, các bộ ngành có liên quan cần khẩn trương xem xét mua lại một số công trình bất động sản thế chấp vay ngân hàng đang hoàn thành, sắp hoàn thành, chủ yếu là các chung cư, toà nhà chưa bán được để làm ký túc xá sinh viên, trường học, bệnh viện, nhà ở cho công nhân, cho người có thu nhập thấp, cho các dự án tái định cư và các mục đích khác.
4.4.2 Tăng cường giám sát đối với doanh nghiệp
Cần tăng cường giám sát nội bộ và kiểm soát đối với các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh DNNN. Thời gian qua nhiều DNNN có kết quả hoạt động hạn chế, năng suất lao động, hiệu quả kinh doanh còn thấp, hiệu quả đóng góp cho xã hội chưa tương xứng với nguồn lực doanh nghiệp nhà nước đang nắm giữ. Một số doanh nghiệp nhà nước làm ăn thua lỗ, còn tiêu cực, tham nhũng, lãng phí, làm thất thoát lớn tài sản nhà nước. Nhiều DNNN không tập trung vào ngành thế mạnh của mình mà đầu tư dàn trải đa ngành nghề, thua lỗ làm thất thoát tài sản và gây nhiều hệ lụy cho kinh tế. Chính phủ cần có các biện pháp hạn chế các Tập đoàn kinh tế Nhà nước, các DNNN vươn sang các lĩnh vực khác, đặc biệt là lĩnh vực tài chính và bất động sản. Các doanh nghiệp cần phải tuân thủ chuẩn