Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của tỉnh Đắk Nông - 3

Tuy nhiên, theo PGS. TS Nguyễn Ngọc Chí thì:

Phạm vi quyền con người trong tố tụng hình sự hẹp hơn, không bao gồm cả hai khuynh hướng trên mà chỉ là sự ghi nhận và bảo đảm quyền của những người dễ bị tổn thương bao gồm: Người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bị tình nghi phạm tội hoặc người bị kết án tránh sự lạm dụng của người tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án [79].

Chúng tôi, chia sẻ quan điểm này và cho rằng quyền con người trong TTHS nói chung và trong hoạt động xét xử nói riêng bao gồm hai nhóm quyền: Quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nhân trong tố tụng hình sự và quyền được xét xử công bằng bởi một tòa án độc lập. Những quyền con người này là tập hợp các quyền thuộc nhóm quyền dân sự, chính trị nhằm mục đích khẳng định danh dự, nhân phẩm của con người trong mọi hoàn cảnh, bảo vệ các cá nhân khỏi sự tùy tiện và sự lạm quyền của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng trong các hoạt động tố tụng hình sự.

a. Quyền an toàn thân thể, danh dự, nhân phẩm của cá nhân trong xét xử

Đây là quyền của người bị tình nghi phạm tội bị áp dụng những biện pháp ngăn chặn như: bắt, tạm giữ, tạm giam; người bị kết án phải chấp hành hình phạt tù trong các trại cải tạo và còn được mở rộng đến những đối tượng bị tạm giữ hành chính. Mặc dù là những người này ít nhiều đã gây nguy hại cho xã hội hoặc bị tình nghi có hành vi gây nguy hại cho xã hội và hạn chế tự do nhưng quyền của họ vẫn được ghi nhận và bảo đảm thi hành bằng biện pháp pháp luật. Quyền của những người này chiếm một vị trí quan trọng trong luật nhân quyền quốc tế và luật nhân quyền quốc gia. Các quyền cơ bản của người bị tước tự do được bảo vệ tại Tuyên ngôn quốc tế nhân quyền (1948), Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (1966) (ICCPR) và nhiều văn kiện khác như “Tập hợp các nguyên tắc bảo vệ tất cả những người bị

giam hay cầm tù dưới bất kỳ hình thức nào” được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết 43/173 ngày 9/12/1988 (bao gồm 39 nguyên tắc cụ thể); “Các quy tắc của Liên hợp quốc về bảo vệ người chưa thành niên bị tước tự do” được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua bằng Nghị quyết 45/113 ngày 14/12/1990... [86]. Về cơ bản, những người bị tước tự do được bảo đảm các quyền sau đây: a) Quyền được bảo vệ không bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt tàn bạo, vô nhân đạo hoặc hạ nhục; b) Quyền được bảo vệ để khỏi bị bắt, giam giữ tùy tiện; c) Quyền được đối xử nhân đạo và tôn trọng nhân phẩm của những người bị tước tự do; d) Quyền thông tin, liên lạc với bên ngoài; e) Quyền có cơ chế khiếu nại, tố cáo hữu hiệu; f) Quyền đối với người chưa thành niên.

Trong quá trình xét xử, tòa án có trách nhiệm bảo đảm những quyền con người kể trên khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế trong quá trình giải quyết vụ án cũng như trong việc ra bản án và quyết định của tòa án.

b. Quyền được xét xử công bằng

“Quyền được xét xử công bằng” (right to a fair trial) là một nhân quyền cơ bản và có tính phổ quát cao, tồn tại trong tất c ả các vụ án hình sự và phi hình sự. Pháp luật nhiều quốc gia quy định quyền này với quan niệm rằng nó là quyền thiết yếu (essential) trong mọi quốc gia pháp trị. Việc đối xử với một người khi họ bị buộc tội phản ánh rò nhà nước tôn trọng nhân quyền đến mức nào, bởi vậy, quyền được xét xử công bằng đã được coi là một hòn đá tảng (a cornerstone) của các xã hội dân chủ. Giống như đặc tính của mọi nhân quyền là phụ thuộc lẫn nhau, quyền được xét xử công bằng với các quyền khác có mối quan hệ hai chiều. Một phiên toà công bằng là yếu tố thiết yếu để bảo đảm các quyền cơ bản khác của con người như quyền sống, quyền được an toàn về thân thể, quyền tự do ngôn luận... Ngược lại, trong một xã hội không

dân chủ, các quyền cơ bản của con người không được tôn trọng thì khó có thể có chuyện mọi người đều được xét xử công bằng. Quan hệ chặt chẽ giữa quyền được xét xử công bằng với pháp trị và dân chủ cũng đã được khẳng định chính thức trong Tuyên ngôn Dakar về quyền được xét xử công bằng tại châu Phi. Từ các văn bản pháp luật thì quyền được xét xử công bằng được hiểu như sau: Quyền được xét xử công bằng là quyền cơ bản của người bị buộc tội trong vụ án hình sự và của các bên trong vụ việc phi hình sự trước cơ quan tư pháp (công an, công tố và toà án), được pháp luật quốc gia và quốc tế ghi nhận và bảo vệ, bao gồm nhiều quyền cụ thể (như được bảo đảm quyền bào chữa, được xét xử nhanh chóng, công khai bởi toà án độc lập, không thiên vị...) nhằm bảo đảm cho việc xét xử được công bằng, cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của mọi cá nhân.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 117 trang tài liệu này.

Quyền được xét xử công bằng bao gồm những quyền cụ thể sau: a) Quyền bình đẳng trước tòa án và được xét xử bởi tòa án độc lập, không thiên vị, công khai; b) Quyền bào chữa; c) Quyền được xét xử theo thủ tục riêng của người chưa thành niên; d) Quyền kháng cáo; e) Quyền được bồi thường khi bị kết án oan; g) Quyền không bị xét xử hai lần về cùng một tội danh; h) Không bị truy cứu hình sự vì lý do không thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng;

i) Không bị coi là có tội nếu hành vi không cấu thành tội phạm theo pháp luật vào thời điểm thực hiện hành vi; k) Không áp dụng hồi tố cũng được nghiên cứu khi đề cập đến quyền được xét xử công bằng.

Bảo đảm quyền con người trong hoạt động xét xử các vụ án hình sự trên cơ sở số liệu của tỉnh Đắk Nông - 3

Như vậy, quyền con người trong hoạt động xét xử là quyền của người yếu thế, của người bị cáo buộc là phạm tội và họ được hưởng những quyền lợi chính đáng, phù hợp với địa vị của họ. Quyền con người trong hoạt động xét xử có những đặc điểm sau:

Thứ nhất: quyền con người trong hoạt động xét xử là quyền của người thuộc các nhóm người dễ bị tổn thương

Hiện nay có nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con người, trong đó định nghĩa của Văn phòng cao ủy Liên Hợp Quốc thường được trích dẫn bởi các nhà nghiên cứu: “Quyền con người là những bảo đảm pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cá nhân và nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và tự do cơ bản của con người” [85, tr.22].

Như vậy, quyền con người được hiểu là những nhu cầu, lợi ích tự nhiên, vốn có và khách quan của con người được thừa nhận và bảo vệ trong pháp luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế. Các quyền con người có thể gây cản trở lẫn nhau, chúng bị giới hạn bởi các quyền và tự do của người khác hay bởi các yêu cầu về đạo đức, trật tự công cộng và phúc lợi chung trong một xã hội dân chủ [11, tr.656].

Bên cạnh các cá nhân, chủ thể của quyền con người còn là các nhóm xã hội nhất định, trong đó có các nhóm dễ bị tổn thương. Quyền cá nhân được hiểu là "các quyền thuộc về mỗi cá nhân, bất kể họ có hay không là thành viên của bất kỳ một nhóm xã hội nào, và việc hưởng thụ các quyền này là tùy thuộc ý chí của mỗi cá nhân" [79, tr.14]. Việc thừa nhận và bảo đảm các quyền của nhóm là hết sức cần thiết và quan trọng và phủ nhận tính phổ quát của quyền con người. Đồng thời, cũng không đi ngược lại với nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế về quyền con người là nguyên tắc tất cả các quyền con người được áp dụng một cách bình đẳng với tất cả mọi người.

Nhóm người dễ bị tổn thương chiếm phần lớn trong nội dung về quyền của nhóm và cấu thành một bộ phận quan trọng của luật quốc tế về quyền con người. Hiện chưa có một định nghĩa chính thức về nhóm người dễ bị tổn thương, tuy cụm từ này được sử dụng thường xuyên trong các tài liệu, đặc biệt là các nghiên cứu về luật nhân quyền quốc tế. Từ những tài liệu đó có thể hiểu khái niệm nhóm người dễ bị tổn thương chỉ những nhóm, cộng đồng có

vị thế về chính trị, xã hội hoặc kinh tế thấp hơn, từ đó khiến họ có nguy cơ cao hơn bị bỏ quên hay bị vi phạm các quyền con người, và bởi vậy, họ cần được chú ý bảo vệ đặc biệt so với những nhóm, cộng đồng người khác. Luật nhân quyền quốc tế xác định những nhóm người dễ bị tổn thương, gồm: Phụ nữ; Trẻ em; Người khuyết tật (thể chất, tâm thần); Người thiểu số/bản địa; Người nước ngoài/người không quốc tịch; Người tị nạn/tìm kiếm quy chế tị nạn; Người lao động di trú; Người bị tước tự do; Người bị cáo buộc phạm tội trong quá trình tố tụng; Tù binh chiến tranh, dân thường trong vùng chiến sự hoặc vùng bị lực lượng quân sự nước ngoài chiếm đóng; Người già; Người sống chung với HIV... Danh sách trên cho thấy, người bị cáo buộc phạm tội trong quá trình tố tụng giải quyết vụ án thuộc nhóm người dễ bị tổn thương và cần phải được quan tâm, bảo vệ. Do địa vị pháp lý, họ là người bị giới hạn một số quyền so với các công dân bình thường nên bị giảm đi cơ hội hưởng thụ các quyền như những người bình thường khác. Đồng thời, do nhận thức và quan niệm chưa được đầy đủ của một số người trong xã hội, cho nên những người bị cáo buộc phạm tội bị khinh miệt, bị xa lánh và kỳ thị nên các quyền chính đáng của họ bị xâm phạm.

Thứ hai: Quyền con người trong hoạt động xét xử là những quyền cơ bản cho dù họ có bị tước hoặc hạn chế một số quyền tự do.

Quyền là cái mà pháp luật, xã hội, phong tục hay lẽ phải cho phép hưởng thụ, vận dụng, thi hành... Và khi thiếu được yêu cầu để có, nếu bị tước đoạt có thể đòi hỏi để giành lại. Quyền của người trong hoạt động xét xử là một bộ phận cấu thành của quyền con người. Quyền con người xuất phát từ chính phẩm giá của mỗi con người, không phân biệt giới tính, dân tộc, màu da, ngôn ngữ hay bất kỳ địa vị nào. Người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử cũng có những phẩm chất và giá trị con người. Không phải vì bị cáo buộc phạm tội mà các giá trị con người của họ bị mất hết và

không còn là con người. Vì vậy, họ cũng phải có các quyền con người cơ bản – những quyền mà tạo hóa ban cho và không ai có thể tước đoạt. Nhân phẩm là những phẩm chất, giá trị chỉ con người mới có và tạo nên tư cách, vị thế, sự khác biệt của con người trong thế giới động vật. Phẩm giá là như nhau và tồn tại bên trong đời sống của mỗi người. Trong bản thân khái niệm phẩm giá có chứa tư tưởng về giá trị của mỗi con người, về tính độc nhất vô nhị và bản sắc của mỗi cá nhân mà đươc mọi người, mọi thiết chế và toàn xã hội tôn trọng. Điểm bắt đầu của khái niệm về quyền con người là khái niệm về phẩm giá vốn có của tất cả các thành viên trong gia đình nhân loại như được ghi nhận trong UDHR và hai công ước ICCPR, ICESCR. Ngay trong lời nói đầu của UDHR đã đề cập đến “phẩm giá vốn có” của con người và khẳng định mọi người đều tự do và bình đẳng về “phẩm giá và các quyền” (trong Điều 1). Còn trong hai công ước ICCPR, ICESCR đều khẳng định quyền con người “bắt nguồn từ phẩm giá vốn có của con người” (lời nói đầu). Việc ghi nhận và bảo vệ các quyền con người nói chung, quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử nói riêng là đáp ứng những đòi hỏi tất yếu về bảo vệ phẩm giá con người.

Người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử cũng được hưởng các quyền con người cơ bản trên cương vị bình đẳng như bất cứ cá nhân nào khác. Bên cạnh đó, họ còn được hưởng những quyền đặc thù, mà bản chất là những ưu tiên hoặc cơ chế bảo vệ đặc biệt dành cho nhóm người này dựa trên những đặc điểm, tính chất và hoàn cảnh của họ. Đó là các quyền như quyền không bị tra tấn, quyền được đối xử nhân đạo, quyền được thông tin về lý do bắt giữ và các quyền được có khi bị bắt giữ, các quyền thuộc nhóm quyền xét xử công bằng, quyền của nhóm người chưa thành niên…

Như vậy, khi nói đến quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong giai đoạn xét xử thì bên cạnh các quyền cơ bản của con người họ còn có các quyền đặc thù của nhóm người dễ bị tổn thương.

Thứ ba: các quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong hoạt động xét xử được pháp luật thừa nhận và bảo vệ.

Hiện có hai trường phái (học thuyết) về nguồn gốc của nhân quyền:

- Thuyết quyền tự nhiên cho rằng, quyền con người, bao gồm cả quyền của người bị tước tự do là những gì bẩm sinh, vốn có thuộc về con người mà ai cũng được hưởng, đơn giản bởi họ là thành viên của đại gia đình nhân loại. Tuyên ngôn độc lập của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ năm 1776 đã khẳng định: "Tất cả mọi người sinh ra đều có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể chối cãi được. Trong những quyền ấy có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc". Về mặt xã hội, thuyết quyền tự nhiên mang ý nghĩa phản kháng. Nó là tư tưởng của các lực lượng tiến bộ chống lại trật tự xã hội bất công, bất bình đẳng (xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến sau này). Vì thế, không chỉ trong quá khứ, mà cả ngày nay thuyết này vẫn có ý nghĩa nhất định. Học thuyết này có điểm tích cực là đề cao con người với tư cách là sản phẩm cao nhất, tinh tuý nhất của sự phát triển tự nhiên. Nhưng nhược điểm là ở chỗ đã che lấp nguồn gốc xã hội của quyền con người và do đó, không thấy tính lịch sử, tính giai cấp, sự phát triển. Bên cạnh học thuyết về quyền tự nhiên, một trường phái khác cho rằng quyền con người nói chung, quyền của người bị cáo buộc phạm tội trong hoạt động xét xử nói riêng mang tính pháp lý. Có nghĩa là các quyền con người phải được quy định trong pháp luật. Như vậy, quyền con người vẫn là những đặc quyền tự nhiên, vốn có ngay từ khi sinh ra. Nhưng khi chưa được Nhà nước, pháp luật ghi nhận thì các quyền tự nhiên chưa trở thành quyền.

Việc phủ nhận hoàn toàn bất cứ học thuyết nào đều không phù hợp. Bởi vì, trong UDHR và một số văn kiện khác thì nhân quyền được khẳng định rò ràng là các quyền tự nhiên. Cụ thể trong đoạn 1, lời nói đầu UDHR nêu rằng: “thừa nhận phẩm giá vốn có và các quyền bình đẳng và không thể tách rời

của mọi thành viên trong gia đình nhân loại”. Ngược lại, về hình thức, hầu hết các văn kiện pháp luật của các quốc gia đều thể hiện quyền con người là các quyền pháp lý. Hai học thuyết quyền tự nhiên và quyền pháp lý bổ sung cho nhau chứ không loại trừ nhau. Mâu thuẫn, đối lập chỉ do cách hiểu và vận dụng không đúng đắn. Bởi vì thuyết về quyền tự nhiên muốn nói đến nguồn gốc, bản chất, không nói đến cách thức ghi nhận, thực hiện quyền và không phủ nhận việc các quyền tự nhiên cần phải được ghi nhận và bảo vệ bằng pháp luật. Còn thuyết về quyền pháp lý nhấn mạnh cách thức ghi nhận, thực hiện quyền chứ không phủ nhận nguồn gốc của quyền là tự nhiên, vốn có. Quyền pháp lý là tập hợp chọn lọc và đã được cụ thể hóa của các quyền tự nhiên. Tập hợp này có thể chưa bao gồm hết các quyền tự nhiên, nhưng không tuyên bố phủ nhận những gì chưa được pháp điển hóa. Như vậy có nghĩa là quyền con người vẫn là những gì bẩm sinh , vốn có mà pháp luật chỉ

có thể thừa nhận và đươc bảo đảm.

Một lập luận khác chứng minh cho nhận định trên, đó là khi xét đến bản chất của con người dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mac-Lênin: Triết học Mac-Lênin đã chỉ ra rằng con người là một thực thể thống nhất giữa mặt sinh vật với mặt xã hội; trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những quan hệ xã hội; con người là chủ thể và là sản phẩm của lịch sử. Như vậy là ở con người vừa có tính tự nhiên (sinh vật) vừa có tính xã hội. Do đó, quyền con người một mặt mang tính tự nhiên, là những gì bẩm sinh, vốn có của mỗi con người. Mặt khác, quyền con người cũng mang tính lịch sử và xã hội. Có nghĩa là quyền con người là kết quả và phụ thuộc vào sự vận động của các quan hệ xã hội trong lịch sử. Thực tế cho thấy, trong mỗi giai đoạn lịch sử, xác nhận và bảo đảm các quyền cho nhóm người trên. Trước hết, pháp luật là phương tiện loài người tồn tại những quy phạm và cơ chế khác nhau để thực hiện, giám sát và bảo vệ các quyền, tự do và nghĩa vụ đó.

Xem tất cả 117 trang.

Ngày đăng: 28/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí