Kế thừa những kết quả nghiên cứu và những lý thuyết liên quan đến nghèo đói của nhiều tác giả.
Phương pháp định lượng: xây dựng mô hình kinh tế lượng đa biến xác định các nhân tố kinh tế, xã hội chủ yếu có liên quan dựa trên các nhận định và kinh nghiệm rút ra từ các công trình nghiên cứu trước có tác động đến tình trạng nghèo đói của hộ gia đình tại Phú Yên.
6. Kết cấu đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, đề tài bao gồm 4 chương:
Phần mở đầu: Giới thiệu chung các vấn đề cần nghiên cứu, mục tiêu nghiên cứu và đưa ra các giả thuyết trong nghiên cứu cũng như các phương pháp nghiên cứu mà đề tài này ứng dụng.
Chương 1: “Cơ sở lý thuyết về nghèo đói” trong chương này chúng tôi đưa ra một số khái niệm và định nghĩa về nghèo đói thường hay sử dụng nhất cho việc nghiên cứu nghèo đói. Cách xác định nghèo đói, các nguyên nhân chung gây ra nghèo đói cũng được phân tích tại chương này. Cuối cùng là phần mô hình nghiên cứu đề nghị cho việc phân tích nghèo đói của hộ gia đình tại Phú Yên.
Chương 2: “Các nhân tố tác động đến nghèo đói ở Phú Yên” Sử dụng bộ số liệu VHLSS 2006 để mô tả các nhân tố có thể tác động đến tình trạng nghèo đói của hộ gia đình ở Phú Yên như: Qui mô hộ, diện tích đất canh tác của hộ, trình độ học vấn của chủ hộ, giới tính của chủ hộ, tính dân tộc, nguồn vốn vay của hộ, tiếp cận cơ sở hạ tầng và tình trạng việc làm của hộ để làm cơ sở cho việc chọn mô hình kinh tế lượng trong nghiên cứu này.
Chương 3: “Kết quả nghiên cứu” trình bày kết quả hồi qui dựa trên các biến rút ra từ chương 2 bằng mô hình kinh tế lượng nhằm kiểm định sự tác động của các nhân tố đến xác suất rơi vào nghèo đói của hộ.
Chương 4: “Chính sách giảm nghèo cho Phú Yên” dựa trên các kết quả rút ra từ chương 3 để từ đó đưa ra nhóm các chính sách giảm nghèo cho Phú Yên.
Kết luận: Trình bày các kết luận chung rút ra từ nghiên cứu.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ NGHÈO ĐÓI
1. Khái niệm về nghèo đói
Không có một định nghĩa duy nhất về nghèo, và do đó không có một phương pháp hoàn hảo để đo lường về nghèo đói. Có nhiều cách và phương pháp xác định nghèo đói khác nhau, nhưng nhìn chung các phân tích nghèo đói đều hướng đến người nghèo và tìm cách giúp họ có cơ hội thoát nghèo. Chính vì thế, trong nghiên cứu này chúng tôi chỉ điểm qua một số khái niệm về nghèo đói, chứ không hướng đến việc đưa ra một định nghĩa hay khái niệm về nghèo đói và cũng không có tham vọng tìm ra một chuẩn nghèo cho riêng Phú Yên, một số khái niệm và định nghĩa dưới đây chúng tôi chọn lọc từ nhiều nghiên cứu của nhiều tác giả sao cho phù hợp với tình hình của Việt Nam cũng như ứng dụng được vào mô hình nghiên cứu.
Theo báo cáo chung của các nhà tài trợ tại Hội Nghị Tư Vấn các nhà tài trợ cho Việt Nam, Hà Nội, 2 -3/12/2003 thì: “nghèo đói là tình trạng bị thiếu thốn ở nhiều phương diện, thu nhập hạn chế, thiếu tài sản để đảm bảo tiêu dùng trong những lúc khó khăn, và dễ bị tổn thương trước những đột biến bất lợi, ít có khả năng truyền đạt nhu cầu và những khó khăn đến những người có khả năng giải quyết, ít được tham gia vào quá trình ra quyết định, cảm giác bị xỉ nhục, không được người khác tôn trọng, v.v..”
“Nghèo là đồng nghĩa với nhà ở bằng tranh, không có đủ đất đai, không có trâu bò, không có TV, con cái thất học, ốm đau không có tiền chữa bệnh,…” (BLĐTBXH, 2003)
WB (1990), định nghĩa nghèo là tình trạng “không có khả năng có mức sống tối thiểu”.
Xét về mặt phúc lợi WB (2001) cho rằng “nghèo có nghĩa là khốn cùng, nghèo có nghĩa là đói, không có nhà cửa, quần áo, ốm đau không ai chăm sóc, mù chữ và không được đến trường. Họ thường bị các thể chế nhà nước và xã hội đối xử tàn tệ, bị gạt ra bên lề xã hội nên không có tiếng nói và quyền lực trong các thể chế đó”.
Theo Robert McNamara “nghèo là sống ở mức ranh giới ngoài cùng của tồn tại, những người nghèo là những người phải đấu tranh để sinh tồn trong các thiếu thốn tồi tệ và trong tình trạng bỏ bê”.
Theo nhận thức về đói nghèo của nhóm người nghèo trong nghiên cứu đói nghèo vùng ven biển Miền Trung và Tây Nguyên (2003): “hộ nghèo là hộ có một ngôi nhà xây tạm bợ không mái ngói, không tường gạch, thường xuyên có người ốm, không có hoặc có ít gia súc, không có vốn để kinh doanh, thiếu kinh nghiệm kinh doanh, không có các tài sản có giá trị, có mảnh đất nhỏ và cằn cỗi, có quá nhiều con nhỏ, là người già và cô đơn, bị mất mùa hoặc có thuyền đánh cá không may mắn, không có đủ thức ăn trong ba tháng, phải kiếm củi hoặc làm thuê để sống qua ngày”.
Theo Wikipedia (Bách khoa toàn thư mở), nghèo tương đối có thể được xem như là: “việc cung cấp không đầy đủ các tiềm lực vật chất và phi vật chất cho những người thuộc về một số tầng lớp xã hội nhất định so với sự sung túc của xã hội đó”.
Nghiên cứu này chúng tôi sử dụng mức chi tiêu thực bình quân làm thước đo nghèo đói của các nhóm hộ gia đình so với mức chung của khu vực. Chính vì lẽ đó, định nghĩa nghèo tương đối là phù hợp cho việc ứng dụng làm cơ sở để phân tích nghèo đói tại tỉnh Phú Yên.
2. Cách xác định nghèo đói
Theo nhiều nghiên cứu nghèo đói trên thế giới các chuyên gia dựa vào biến thu nhập và chi tiêu để xác định nghèo đói. Tương tự, trong nhiều nghiên cứu nghèo đói cấp vùng tại Việt Nam, các tác giả lấy chi tiêu thực của hộ làm cơ sở đánh giá nghèo đói là một cách tiếp cận hiệu quả hơn bao giờ hết. Đối với Việt Nam thu nhập là một lĩnh vực rất khó xác định và tương đối phức tạp, thu nhập của người dân nhất là những người sống ở nông thôn đến từ nhiều nguồn, nhiều thời điểm khác nhau và không ổn định. Thu nhập từ lương chiếm một tỷ trọng khá nhỏ và đôi khi không đáng kể. Thậm chí, ngay cả những người mang về thu nhập chính cho hộ cũng không nhớ chính xác là bao nhiêu và từ đâu. Chính vì thế, việc lấy thu nhập làm thước đo xác định nghèo đói là một điều khá khó khăn và phức tạp. Trong điều kiện đó chi tiêu hộ là một thước đo hiệu quả vì chi tiêu có tính ổn định hơn trong ngắn hạn thường một tháng hoặc một năm (ngoại trừ các khoản chi tiêu đột biến: bệnh tật, chi khẩn cấp,..). Thêm vào đó, chi tiêu được các thành viên trong hộ kiểm soát chặt chẽ hơn bao giờ hết. Với ý nghĩa đó, khi xác định nghèo đói các nhà nghiên cứu xây dựng một chuẩn nghèo dựa trên
biến chi tiêu thực bình quân, sau đó kiểm tra xác suất rơi vào nghèo đói của hộ dựa trên ngưỡng chi tiêu này.
Chuẩn nghèo mới nhất đối với Việt Nam là chuẩn nghèo giai đoạn 2006 – 2010 được xây dựng dựa trên cơ sở mức chi tiêu hộ gia đình, trong đó chi tiêu cho lương thực thực phẩm đảm bảo năng lượng bình quân 2.100 kcal/người/ngày là yếu tố cốt lỗi trong việc xây dựng chuẩn nghèo.
Cho đến nay, Chính phủ Việt Nam đã 4 lần nâng mức chuẩn nghèo trong thời gian từ 1993 đến cuối năm 2005. Có thể chỉ ra hai chuẩn nghèo được chính phủ Việt Nam đưa ra gần đây nhất.
Theo quyết định số 143/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 27 tháng 9 năm 2001, trong đó phê duyệt “chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói và giảm nghèo giai đoạn 2001-2005”, thì những hộ gia đình có thu nhập bình quân đầu người ở khu vực nông thôn miền núi và hải đảo từ 80.000 đồng/người/tháng; ở khu vực nông thôn đồng bằng 100.000 đồng/người/tháng; ở khu vực thành thị từ 150.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo.
Theo quyết định số 170/2005/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ năm 2005 về việc ban hành chuẩn nghèo áp dụng cho giai đoạn 2006-2010 thì ở khu vực nông thôn mức thu nhập 200.000 đồng/người/tháng, khu vực thành thị 260.000 đồng/người/tháng trở xuống là hộ nghèo.
Theo PYSO (2006), tỷ lệ hộ nghèo lương thực, thực phẩm của tỉnh là 6,5%. Điều này cho thấy hiện nay tại Phú Yên vẫn còn hộ nghèo. Như cách tiếp cận ban đầu để đánh giá nghèo đói người ta sử dụng biến chi tiêu làm thước đo trong phân tích. Chính vì thế, trong nghiên cứu này chúng tôi xác định nghèo đói bằng cách chia hộ gia đình thành 5 nhóm tương đối dựa trên biến chi tiêu thực bình quân của bộ số liệu VHLSS (2006), người chủ hộ sẽ đại diện cho hộ. Những hộ thuộc vào nhóm 20% có mức chi tiêu thấp nhất thì được xem là hộ nghèo. Một điểm khác biệt trong cách tiếp cận này là chúng ta không quan tâm đến chuẩn nghèo do GSO hay một tổ chức nào đưa ra. Một lý do khác cho thấy cách tiếp cận này là phù hợp vì chúng ta không có cơ sở để biết được chính xác mức chuẩn nghèo cụ thể cho từng vùng tại Phú Yên là bao nhiêu, sự nghèo đói là phức tạp và có sự khác biệt giữa các vùng miền. Việc chia hộ gia đình
thành 5 nhóm chi tiêu là một cách kế thừa từ nhiều nghiên cứu cũng như luận chứng khoa học của các tác giả, tổ chức đã từng nghiên cứu nghèo đói thành công tại Việt Nam và trên thế giới.
3. Các nguyên nhân dẫn đến nghèo đói
Nghèo đói là vấn đề đang được chính phủ và các tổ chức hết sức quan tâm, thời gian qua ở Việt Nam có rất nhiều công trình nghiên cứu về nghèo đói cũng như liên quan đến nghèo đói từ cấp vùng đến cấp địa phương theo nhiều cách tiếp cận khác nhau. Điều đó cho thấy tình trạng nghèo đói của Việt Nam diễn ra phức tạp ở mỗi vùng miền. Mô hình nghèo đói dường như không có mẫu số chung, nhưng xét cho cùng nghèo đói là do những nguyên nhân sau:
Theo BCVN tấn công nghèo đói (2003), bản chất đa chiều của nghèo đói đối với Việt Nam là: từ mức thu nhập và chi tiêu thấp, chăm sóc sức khỏe kém, thiếu thốn về y tế và giáo dục, tiếp đến là những khía cạnh phi vật chất như: khoảng cách về giới, sự không an toàn, thiếu quyền lực của người nghèo.
Theo WB (2007) các nhân tố có thể gây ra tình trạng nghèo đói: “Sự cách biệt về địa lý, thiếu nguồn lực về đất đai, điều kiện tự nhiên, quản lý nhà nước yếu kém, bất bình đẳng, cơ sở hạ tầng khu vực, khả năng tiếp cận hàng hoá dịch vụ công, quy mô hộ, tuổi tác, giới tính, trình độ giáo dục, tình trạng việc làm, tính dân tộc,.v.v..”.
Theo RPGA (2003), nguyên nhân nghèo đói ở khu vực ven biển miền trung là do: “Điều kiện tự nhiên, diện tích đất canh tác, cơ sở hạ tầng, trình độ giáo dục, giới tính, dân tộc, và quản lý nhà nước”. Nguyên nhân nghèo đói ở vùng Tây Nguyên ngoài các nguyên nhân như ở vùng ven biển miền Trung thì vùng này còn có thêm hai nguyên nhân nữa đó là: “sự di dân tự do và giá cả nông sản bấp bênh”.
Theo TS. Nguyễn Trọng Hoài, Võ Tất Thắng và Lương Quốc Duy thì các nguyên nhân có thể gây ra nghèo đói: “1. Nghề nghiệp, tình trạng việc làm và trình độ học vấn; 2. Thiếu khả năng tiếp cận các nguồn lực như vốn, đất đai; 3. Những đặc điểm về nhân khẩu học; 4. Sự cách biệt về xã hội; 5. Những hạn chế về người dân tộc thiểu số; 6. Thiếu ý chí vươn lên và thái độ tiêu cực với cuộc sống”.
3.1. Việc làm của hộ
Việc làm cho người dân là một vấn đề hết sức quan trọng đối với mọi quốc gia trên thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Nếu một quốc gia nào đó tình trạng thất nghiệp xảy ra thường xuyên với tỷ lệ cao thì chắc chắn nền kinh tế của quốc gia ấy đang đối mặt với nhiều vấn đề khó khăn về kinh tế, chính trị, xã hội. Mọi chính sách của chính phủ đều hướng đến mục tiêu tạo công ăn việc làm cho người dân nhằm gia tăng thu nhập, cải thiện đời sống. Ở Việt Nam, tình trạng người dân sống vùng nông thôn thiếu việc làm hay làm không hết thời gian đang là một vấn đề đau đầu và nan giải đối với các nhà làm chính sách. Theo nhiều báo cáo, hiện nay tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam khoảng 12% tổng số người đến tuổi lao động có khả năng lao động. Có khoảng 73% người dân Việt Nam sống ở nông thôn và chiếm 93% số người nghèo của cả nước. 23% người trồng lúa và gần 1/5 nông dân là người nghèo (Báo cáo cập nhật tình hình KTVN, WB, Hội nghị giữa kỳ nhóm tư vấn các nhà tài trợ, Sapa, 2008).
Theo MDPA (2004), hơn nửa số người nghèo ở một số tỉnh thuộc vùng ĐBSCL đang làm thuê trong nông nghiệp và đây là nguồn thu nhập chính của họ. Thu nhập của người nghèo phần lớn đến từ nông nghiệp.
Theo Báo Lao Động số 244 (04/9/2006), Việt Nam vẫn là một quốc gia có thu nhập trên đầu người thấp, đại bộ phận người dân có mức thu nhập chỉ trên ngưỡng nghèo chút ít, nên rất dễ tái nghèo nếu có những chấn động kinh tế. Nông nghiệp là khu vực nhạy cảm, sử dụng 69% lực lượng lao động và 45% dân nông thôn sống dưới mức nghèo.
Bảng 1
Mức đóng góp vào tổng thu nhập năm 2004 (%)
Nghèo nhất | Gần nghèo nhất | Trung bình | Gần giàu nhất | Giàu nhất | Tổng số | |
Lao động nông nghiệp | 55,5 | 46,1 | 37,3 | 28,5 | 14,7 | 26,9 |
Lao động hưởng lương | 25,6 | 27,9 | 29,3 | 32,1 | 32,6 | 31,1 |
Lao động tự túc phi nông nghiệp | 7,7 | 13,1 | 19,3 | 22,4 | 26,0 | 21,8 |
Các loại hình lao động khác | 11,1 | 12,9 | 14,1 | 17,0 | 26,7 | 20,3 |
Tổng | 100 | 100 | 100 | 100 | 100 | 100 |
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố tác động đến nghèo đói ở tỉnh Phú Yên - 1
- Các Nhân Tố Tác Động Đến Nghèo Đói Ở Phú Yên
- Các nhân tố tác động đến nghèo đói ở tỉnh Phú Yên - 4
- Các nhân tố tác động đến nghèo đói ở tỉnh Phú Yên - 5
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
Nguồn: Báo cáo cập nhật tình hình phát triển và cải cách KTVN (2006)
3.2. Diện tích đất canh tác
Đất là nguồn sống và là tài sản có giá trị tạo thu nhập đối với nhiều hộ nông dân. Mất tài sản này là đồng nghĩa với nguy cơ giảm thu nhập và bị ảnh hưởng khi có các biến động.
Theo BCPTVN (2000), đất đai là tài sản quan trọng của những hộ nghèo, là nguồn tạo ra thu nhập cho hộ. Việc có ít đất hoặc mất đất đồng nghĩa với thu nhập giảm và có nguy cơ rơi vào tình trạng nghèo đói.
Theo MDPA (2004), tại ĐBSCL nhóm những hộ nông dân không có đất canh tác có tỷ lệ nghèo cao hơn các nhóm khác trong vùng.
3.3. Trình độ học vấn
Trình độ học vấn đóng vai trò quan trọng cho mọi người trong việc tiếp thu kiến thức và ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại vào sản xuất kể cả nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Các quốc gia phát triển thường có trình độ giáo dục cao. Giáo dục được xem như là chìa khoá dẫn đến thành công và là con đường ngắn nhất giúp người nghèo thoát nghèo hiệu quả. Trong nhiều nghiên cứu cho thấy giáo dục có liên quan khá mật thiết với nghèo đói và luôn luôn có ý nghĩa trong mọi phân tích.
Theo BCPTVN (2000), người nghèo thường có trình độ học vấn tương đối thấp, thiếu kỹ năng làm việc và thông tin. Trẻ em của các hộ nghèo ít có khả năng được đi học, và bị rơi vào vòng nghèo đói do các thế hệ trước để lại. Báo cáo cũng chỉ ra rằng, tỷ lệ nghèo giảm xuống khi trình độ học vấn tăng lên, và gần 90% số người nghèo là những người chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Những người chưa hoàn thành chương trình giáo dục tiểu học có tỷ lệ nghèo cao nhất (57%). Ngược lại, rất hiếm có trường hợp nào đã tốt nghiệp đại học lại thuộc diện nghèo đói (4%). Sự giảm nghèo luôn đi kèm với những cải thiện trong việc tiếp cận giáo dục.
Bảng 2
Tỷ lệ (%) đi học tính trong nhóm nghèo và giàu năm 2004.
Tiểu học | Trung học cơ sở | Phổ thông trung học | |
Nhóm nghèo nhất | 85 | 78 | 60 |
Nhóm giàu nhất | 99 | 95 | 81 |
Nguồn: BCPTVN (2007).
3.4. Số thành viên trong hộ
Theo BCPTVN (2000), các hộ có nhiều trẻ em thường thuộc vào nhóm các hộ nghèo, số trẻ em trong hộ cao đồng nghĩa với việc tăng số miệng ăn trong gia đình trong khi làm giảm thu nhập bình quân của hộ, đồng thời làm gia tăng chi phí chăm sóc y tế và giáo dục (23% trong tổng chi tiêu lương thực), những chi phí này đối với các hộ nông dân là một gánh nặng và là nguyên nhân làm cho sự nghèo khổ gia tăng.
Các PPA cũng cho thấy rằng các hộ gia đình nghèo thường cho con thôi học khi gia
đình lâm vào tình cảnh khó khăn hoặc bất ổn định.
Nhiều nghiên cứu nghèo đói chỉ ra rằng, phần lớn các gia đình sống ở khu vực nông thôn, miền núi và hải đảo thường đông con hơn những gia đình sống ở thành thị. Các gia đình này có nguy cơ rơi vào đói nghèo cao và khó có cơ hội thoát nghèo trong một điều kiện tương tự.
3.5. Giới tính của chủ hộ
Giới tính là một vấn đề thu hút khá nhiều nhà nghiên cứu quan tâm, có nhiều nghiên cứu về giới tính đã chỉ ra rằng: giới tính có quan hệ mật thiết với sự bình đẳng giữa nam và nữ. Sự bất bình đẳng về giới tính thể hiện rất khác nhau giữa các nước trên thế giới, vấn đề trọng nam khinh nữ xảy ra phổ biến trong suốt chiều dài lịch sử và diễn ra khắp mọi nơi. Đối với Việt Nam, thời gian qua chính phủ đã dành ưu tiên cho mục tiêu phát triển nhằm thúc đẩy sự bình đẳng nhất là bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ. Đã có những tiến bộ vượt bậc trong việc nâng cao tỷ lệ phụ nữ được đến trường và tỷ lệ phụ nữ tham gia vào các cơ quan lập pháp của chính phủ, quyền lợi của người phụ nữ được nhà nước bảo trợ. Tuy nhiên, còn quá nhiều việc liên quan về giới mà chính phủ Việt Nam phải làm đang ở phía trước. Theo báo cáo WB và UNDP (2005) Việt Nam xếp thứ 87 trên 144 nước được xếp hạn theo chỉ số phát triển về giới.
Theo MDPA (2004), tiền công của phụ nữ trong lĩnh vực nông nghiệp ít hơn hai phần ba so với mức của nam giới. Tại một số tỉnh ĐBSCL phụ nữ gặp bất lợi đặc biệt khi có sự chuyển dịch cơ cấu từ trồng lúa sang nuôi tôm.