Angella Amudo & Eno L. Inanga (2009) cho rằng có sáu nhân tố tác động đến sự hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm: (1) Môi trường kiểm soát, (2) Đánh giá rủi ro, (3) Hệ thống thông tin và truyền thông, (4) Các hoạt động kiểm soát,
(5) Giám sát, (6) Công nghệ thông tin. Sultana & Haque, (2011); Gamage và cộng sự (2014) cho rằng có năm nhân tố tác động đến sự hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm: (1) Môi trường kiểm soát, (2) Đánh giá rủi ro, (3) Hệ thống thông tin và truyền thông, (4) Các hoạt động kiểm soát, (5) Giám sát.
International Federation of Accountants IFAC (2012), “Evaluating and Improving Internal control in Organizations”, Đánh giá và hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong tổ chức. Bài báo này tác giả xác định lý do tại sao các hệ thống kiểm soát nội bộ trong tổ chức không phải lúc nào cũng hiệu quả từ đó hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ để quản lý rủi ro, chống lại các mối đe dọa và tận dụng các cơ hội để kiểm soát các hoạt động của tổ chức một cách hiệu quả. Nghiên cứu đã đưa ra những nguyên tắt đánh giá và cải thiện hệ thống kiểm soát nội bộ, những hướng dẫn cụ thể để thực hiện các nguyên tắc được nhà quản lý và nhân viên khác của tổ chức, nắm bắt và tích cực theo dõi các hoạt động, tận dụng các cơ hội để chống lại các mối đe dọa, phù hợp với chiến lược quản lý rủi ro và các chính sách về kiểm soát nội bộ do cơ quan quản lý xác định để đạt được mục tiêu của tổ chức.
John J. Cheh – Đại học Akron, Đại học Jang-hyung Lee Daegu (2010), “Determinants Of Internal Control Weaknesses”, Các yếu tố quyết định đối với kiểm soát nội bộ. Bài báo tìm ra được những biến số tài chính và phi tài chính giúp công ty xác định được những hạn chế trong kiểm soát nội bộ theo Bộ luật Sarbanes-Oxley. Các biến này có thể được sử dụng bởi các kiểm toán viên như là một công cụ sàng lọc để xác định trong quá trình kiểm soát nội bộ, từ đó giúp kiểm toán viên tiết kiệm đáng kể chi phí kiểm toán.
Ngoài các nghiên cứu nói trên, còn có các nghiên cứu những tác động của thành phần trong hệ thống kiểm soát nội bộ đến nâng cao khả năng của hệ thống kiểm soát nội bộ như: Nghiên cứu về môi trường kiểm soát: D “Aquyla, 1998 & Ramos (2004), Rae & Subramaniam (2006); Nghiên cứu về đánh giá rủi ro: Lannoye (1999); Walker (1999); Nghiên cứu về thông tin và truyền thông: Steihoff (2001), Hevesi (2005), Nghiên cứu các hoạt động kiểm soát: Jenkinson (2008), Ramos (2004); Nguyên cứu về giám sát: Springer (2004), Muhota (2005), Diamond (1984), Calomiris & Khan (1991); Nghiên cứu về lợi ích nhóm: Rawls, J.A (1971), Frank Scarpatti (1977), Allan J.Cigler & Burdett A.Loomis (1995).
1.2.3. Nhận xét về các nghiên cứu trước đây và khoảng trống nghiên cứu
Sau khi tìm hiểu các công trình nghiên cứu trong nước cũng như ngoài nước đã được công bố, tác giả xác định được một số điểm cơ bản như sau: Đa số các tác giả tập trung vào việc nghiên cứu những vấn đề có liên quan đến hoạt động kiểm soát nội bộ; hệ thống kiểm soát nội bộ tại các đơn vị; các nhân tố trong hệ thống kiểm soát nội bộ
tác động đến hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ tại các đơn vị.Tuy nhiên, trong các nghiên cứu này chưa có tác giả nào đề cập đến các nhân tố ảnh hưởng đến sự hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác thu BHXH của các cơ quan BHXH. Đồng thời các nghiên cứu của những tác giả được công bố chủ yếu sử dụng các nhân tố bên trong cấu thành nên hệ thống kiểm soát nội bộ mà ít đề cập đến nhân tố bên ngoài mang tính đặc thù của nền kinh tế Việt Nam có tác động đến tính hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ. Những vấn đề trên cũng chính là khoảng trống rất quan trọng cho việc nghiên cứu của tác giả trong luận văn của mình.
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác thu Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Dương - 1
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu hiệu của hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác thu Bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Dương - 2
- Các Bộ Phận Hợp Thành Hệ Thống Kiểm Soát Nội Bộ Theo Coso
- Thiết Kế Nghiên Cứu Và Quy Trình Nghiên Cứu
- Xây Dựng Mô Hình Nghiên Cứu Về Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Tính Hữu Hiệu Của Hệ Thống Kiểm Soát Nội Bộ Trong Công Tác Thu Bhxh
Xem toàn bộ 154 trang tài liệu này.
1.3. Mục tiêu nghiên cứu
Khảo sát, đánh giá thực trạng kiểm soát nội bộ về thu tại BHXH tỉnh Bình Dương, đánh giá những tồn tại hạn chế và nguyên nhân về công tác thu.
Đo lường mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến hệ thống kiểm soát nội bộ liên quan đến công tác quản lý thu tại BHXH tỉnh Bình Dương.
Đề xuất một số nội dung liên quan đến kết quả nghiên cứu về công tác thu BHXH nhằm nâng cao khả năng kiểm soát nội bộ về thu BHXH tại tỉnh Bình Dương.
1.3.1. Mục tiêu nghiên cứu tổng quát
Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu hiệu của hệ thống KSNB trong công tác thu BHXH tại BHXH tỉnh Bình Dương.
1.3.2. Mục tiêu nghiên cứu cụ thể
- Nhận dạng các nhân tố tác động đến tính hữu hiệu của hệ thống KSNB trong công tác thu BHXH tại BHXH tỉnh Bình Dương;
- Đo lường mức độ tác động của từng nhân tố đến tính hữu hiệu của hệ thống KSNB trong công tác thu BHXH tại BHXH tỉnh Bình Dương;
- Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao tính hữu hiệu của hệ thống KSNB trong công tác thu BHXH tại BHXH tỉnh Bình Dương.
1.4. Câu hỏi nghiên cứu
Các nhân tố nào ảnh hưởng đến tính hữu hiệu của hệ thống KSNB trong công tác thu BHXH tại BHXH tỉnh Bình Dương?
Mức độ ảnh hưởng của các nhân tố đến hệ thống kiểm soát nội bộ liên quan đến công tác quản lý thu tại BHXH tỉnh Bình Dương?
Thực trạng kiểm soát nội bộ về thu tại BHXH tỉnh Bình Dương hiện nay như thế
nào?
Làm thế nào để nâng cao tính hữu hiệu của hệ thống KSNB trong công tác thu
BHXH tại BHXH tỉnh Bình Dương?
1.5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
1.5.1. Đối tượng nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Kiểm soát nội bộ về thu bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Dương.
- Đối tượng khảo sát: Là cán bộ quản lý thu BHXH và các nhân viên BHXH tại tỉnh Bình Dương.
1.5.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Phạm vi nghiên cứu của đề tài này là Bảo hiểm xã hội tỉnh Bình Dương.
- Về thời gian: Các số liệu thứ cấp được thu thập dùng để viết đề tài được giới hạn trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến năm 2017, luận văn thực hiện từ tháng 05/2018 đến tháng 10/2018.
1.6. Phương pháp nghiên cứu
1.6.1. Phương pháp thu thập số liệu
- Nghiên cứu tài liệu lý thuyết có liên quan.
- Nghiên cứu sơ bộ để hình thành bảng câu hỏi.
- Nghiên cứu chính thức: Thu thập dữ liệu, xử lý dữ liệu, kết luận và đúc kết các hàm ý quản trị.
1.6.2. Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm phương pháp điều tra khảo sát.
Phương pháp thảo luận: Phương pháp này được thực hiện với một số cán bộ lãnh đạo và cán bộ quản lý thu nhằm thu thập thêm thông tin và kiểm tra tính xác thực của bảng hỏi.
Phương pháp khảo sát bằng bảng hỏi: Bảng hỏi được xây dựng dựa trên cơ sở mô hình nghiên cứu của đề tài nhằm thu thập thông tin đưa vào phân tích và kiểm định các giả thuyết nghiên cứu.
Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên: Mẫu được chọn theo phương pháp phi xác suất: kích thước mẫu là 192 cán bộ làm công tác quản lý thu, viên chức và nhân viên đang công tác tại BHXH tỉnh Bình Dương và các BHXH huyện, thị xã, thành phố.
Phương pháp thống kê toán học: Xử lý số liệu thu được bằng phần mềm SPSS phiên bản 20.0.
- Nghiên cứu định tính:
Khảo sát các thông tin về các vấn đề liên quan đến BHXH như: Bộ máy tổ chức, công tác quản lý BHXH trên địa bàn tỉnh Bình Dương đối với các cấp lãnh đạo từ BHXH Việt Nam, BHXH tỉnh và các BHXH huyện, thị xã, thành phố trực thuộc tham khảo các giải pháp nhằm hoàn thiện hệ thống KSNB của các năm trước đó để tìm ra các giải pháp mới có khả năng thực hiện được để hoàn thiện hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác thu BHXH trong thời gian tới. Vì vậy, tác giả thực hiện các bước sau:
Thu thập và tổng hợp lý thuyết liên quan đến đề tài nghiên cứu.
Lập bảng câu hỏi sơ bộ.
Phỏng vấn chuyên gia và tiến hành điều chỉnh bản hỏi.
Tiến hành phỏng vấn thử và chạy thử (khoảng 50 phiếu khảo sát) để kiểm định thang đo.
Xây dựng bản câu hỏi chính thức cho đề tài nghiên cứu.
- Nghiên cứu định lượng: Xử lý phiếu khảo sát bằng phần mềm SPSS như sau:
Kiểm định thang đo Likert 5 mức độ (từ 1: hoàn toàn không đồng ý đến 5: hoàn toàn đồng ý) để đo lường mức độ các nhân tố ảnh hưởng đến tính hữu hiệu của hệ thống KSNB trong công tác thu BHXH tại BHXH tỉnh Bình Dương.
Thống kê mô tả.
Đo lường độ tin cậy của thang đo bằng hệ số tin cậy Cronbach’s Alpha.
Phân tích nhân tố khám phá (EFA) nhằm thu nhỏ và tóm tắt dữ liệu để đưa vào các thủ tục phân tích đa biến.
Phân tích hồi quy và kiểm định sự phù hợp của mô hình nhằm xác định các nhân tố ảnh hưởng đến hệ thống kiểm soát nội bộ trong công tác thu BHXH.
Kiểm định các giả thuyết theo mô hình nghiên cứu của đề tài.
Mô hình nghiên cứu
- Biến phụ thuộc là: “khả năng kiểm soát thu”
- Các biến độc lập:
+ Môi trường kiểm soát
+ Đánh giá rủi ro
+ Hoạt động kiểm soát
+ Thông tin và truyền thông
+ Giám sát
- Biến mới: “Ý thức tham gia đóng BHXH”.
1.7. Đóng góp của đề tài
Luận văn đã tổng hợp cơ sở lý thuyết về các bộ phận tạo nên hệ thống kiểm soát nội bộ trong khu vực công, từ đó giúp đánh giá được thực trạng thực hiện việc kiểm soát nội bộ về thu BHXH tại BHXH tỉnh Bình Dương, để tìm được những điểm đã thực hiện tốt và những điểm còn hạn chế trong công tác ứng dụng hệ thống kiểm soát nội bộ vào công tác quản lý thu BHXH. Đề xuất các giải pháp và kiến nghị cần thiết nhằm tăng cường hiệu quả kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý thu BHXH tại BHXH tỉnh Bình Dương.
- Ý nghĩa khoa học của đề tài: Đề tài đã khái quát hóa được cơ sở lý luận về hệ thống KSNB trong khu vực công, trên cơ sở đó đã tiến hành xây dựng và kiểm định mô hình nghiên cứu về các yếu tố tác động đến tính hữu hiệu của hệ thống KSNB trong công tác thu BHXH tại BHXH tỉnh Bình Dương.
- Ý nghĩa thực tiễn của đề tài: Đề tài đã đề xuất được những kiến nghị nhằm tăng cường hiệu quả kiểm soát nội bộ trong công tác quản lý thu BHXH tại BHXH tỉnh Bình Dương.
1.8. Cấu trúc luận văn
Cấu trúc luận văn gồm 05 chương: Chương 1: Tổng quan về đề tài nghiên cứu
Chương 2: Lý luận chung về kiểm soát nội bộ trong khu vực công Chương 3: Phương pháp nghiên cứu
Chương 4: Thực trạng và kết quả nghiên cứu về HTKSNB tại BHXH tỉnh Bình Dương
Chương 5: Giải pháp và kiến nghị trong công tác thu BHXH tại BHXH tỉnh Bình Dương.
CHƯƠNG 2 : LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM SOÁT NỘI BỘ TRONG KHU VỰC CÔNG
2.1. Tổng quan về kiểm soát nội bộ
2.1.1. Lịch sử ra đời và phát triển lý luận về kiểm soát nội bộ
Hoạt động kiểm soát luôn là khâu quan trọng trong quá trình quản lý, điều hành của nhà quản trị nhằm đạt được các mục tiêu của tổ chức. Hoạt động kiểm soát được thực hiện gắn liền với hệ thống kiểm soát nội bộ, cùng với sự phát triển của thực tiễn quản lý, khái niệm kiểm soát nội bộ (KSNB) đã hình thành và phát triển để trở thành một hệ thống lý luận về vấn đề kiểm soát trong tổ chức.
Để thực hiện chức năng kiểm soát, nhà quản lý sử dụng công cụ chủ yếu là KSNB của đơn vị. Trong hơn một thế kỷ qua, khái niệm KSNB đã phát triển từ chỗ được xem là một phương pháp giúp cho kiểm toán viên độc lập xác định phương pháp hiệu quả nhất trong việc lập kế hoạch kiểm toán đến chỗ được coi là một bộ phận chủ yếu của hệ thống quản lý hữu hiệu.
Khái niệm KSNB bắt đầu được sử dụng vào đầu thế kỷ 20 trong các tài liệu về kiểm toán. Từ thập niên 1940, các tổ chức kế toán công và kiểm toán nội bộ Hoa kỳ đã xuất bản một loạt các báo cáo, hướng dẫn và tiêu chuẩn về tìm hiểu KSNB trong các cuộc kiểm toán. Đến thập niên 1970, KSNB được quan tâm đặc biệt trong các lĩnh vực thiết kế hệ thống và kiểm toán, chủ yếu hướng vào cách thức cải tiến hệ thống KSNB và vận dụng trong các cuộc kiểm toán. Đạo luật chống hành vi hối lộ ở nước ngoài 1977, các báo cáo của Cohen Commission và FEI (Financial Executive Institule) đều đề cập đến việc hoàn thiện hệ thống kế toán và KSNB. Ủy ban chứng khoán Hoa Kỳ (SEC) (Securities and Exchange Commission) cũng đưa ra các điều luật bắt buộc các nhà quản trị phải báo cáo về hệ thống kiểm soát nội bộ của tổ chức. Năm 1979, Hiệp hội kế toán viên công chứng Hoa Kỳ (AICPA) (American Institute of Certified Public Accountants) đã thành lập một Ủy ban tư vấn đặc biệt về kiểm toán nội bộ nhằm đưa ra các hướng dẫn về thiết lập và đánh giá hệ thống KSNB.
Giai đoạn từ năm 1980 đến năm 1985, Hiệp hội kế toán viên công chứng Hoa Kỳ đã tiến hành sàng lọc, ban hành và sửa đổi các chuẩn mực về sự đánh giá của kiểm toán viên độc lập về KSNB và báo cáo về KSNB. Hiệp hội kế toán nội bộ (IIA) (Institute of Internal Auditor) cũng ban hành chuẩn mực và hướng dẫn kiểm toán viên nội bộ về bản chất của kiểm soát và vai trò của các bên liên quan trong việc thiết lập, duy trì và đánh giá hệ thống KSNB. Từ năm 1985 về sau, sự quan tâm tập trung vào KSNB càng mạnh mẽ hơn. Hội đồng quốc gia chống gian lận về báo cáo tài chính (Treadway Commision) được thành lập năm 1985, hoạt động này cũng đưa ra một loạt các vấn đề về KSNB, nhấn mạnh tầm quan trọng của môi trường kiểm soát, các quy tắc về đạo đức, các Ủy ban kiểm toán và chức năng của kiểm toán nội bộ. Vì thế Ủy
ban tổ chức đồng bảo trợ (COSO) (Committee of Sponsoring Organizations) của Hội đồng quốc gia chống gian lận về báo cáo tài chính đã được thành lập nhằm nghiên cứu KSNB:
- Thống nhất định nghĩa về KSNB để phục vụ cho nhu cầu của các đối tượng khác nhau.
- Cung cấp đầy đủ một hệ thống tiêu chuẩn để giúp các đơn vị có thể đánh giá hệ thống KSNB để tìm giải pháp hoàn thiện. Báo cáo COSO năm 1992 đã tạo lập một nền tảng lý luận cơ bản về KSNB, trên cơ sở đó hàng loạt các nguyên cứu về KSNB ở nhiều lĩnh vực ra đời như:
+ Phát triển theo hướng quản trị: Năm 2001, dựa trên báo cáo COSO 1992, COSO đã nguyên cứu hệ thống đánh giá rủi ro doanh nghiệp.
+ Phát triển theo hướng chuyên sâu vào những ngành nghề cụ thể: Báo cáo Basle 1998 của Ủy ban Basle các Ngân hàng Trung ương công bố về khuôn khổ KSNB trong ngân hàng, dựa vào lý luận cơ bản của báo cáo COSO 1992.
+ Phát triển theo hướng quốc gia: Nhiều quốc gia trên thế giới có khuynh hướng xây dựng một khuôn khổ lý thuyết riêng về KSNB. Điển hình là Báo cáo COSO 1995 (Canada), báo cáo Turnbull 1999 (Anh). Các báo cáo này không có sự khác biệt lớn so với Báo cáo COSO 1992.
2.1.2. Định nghĩa về kiểm soát nội bộ
Theo Báo cáo COSO (1992) định nghĩa: KSNB là một quá trình do người quản lý, hội đồng quản trị và các nhân viên của đơn vị chi phối, nó được thiết lập để cung cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực hiện ba mục tiêu: Hoạt động hữu hiệu và có hiệu quả, Báo cáo tài chính đáng tin cậy, các luật lệ và quy định được tuân thủ.
Theo Viện kiểm soát nội bộ (IIA) định nghĩa KSNB là bất kỳ hành động nào do quản lý thực hiện để tăng khả năng xác định các mục tiêu sẽ đạt được (Sewyer và cộng sự, 2003). Kiểm soát có thể được phòng ngừa (để ngăn chặn các sự kiện không mong muốn xảy ra), thanh tra (để phát hiện và sửa các sự kiện không mong muốn đã xảy ra) hoặc chỉ thị (gây ra một sự kiện mong muốn xảy ra). Một hệ thống kiểm soát là thành phần tích hợp của các thành phần kiểm soát và các hoạt động được sử dụng bởi một tổ chức để đạt được mục tiêu và mục đích.
Việc kiểm soát đòi hỏi phải so sánh hiện trạng, tình trạng hiện tại của quy trình, tổ chức, bộ phận hoặc quy luật với các tiêu chí đã được xác định trước và được chấp nhận. Một loạt các thủ tục kiểm soát có thể được sử dụng, thủ tục kiểm soát là các hoạt động mà kiểm soát viên thực hiện để có được các bằng chứng đầy đủ, có thẩm quyền để đảm bảo cơ sở hợp lý cho việc kiểm soát.
Theo định nghĩa của AICPA (1949) KSNB được nâng cấp và hiểu theo nghĩa như là các biện pháp hay cách thức được chấp nhận và thực hiện trong một tổ chức để bảo vệ tiền và các tài sản khác, cũng như kiểm tra sự chính xác trong ghi chép của sổ
sách và nó được bảo đảm bởi sự đáng tin cậy của số liệu kế toán thúc đẩy hoạt động có hiệu quả cũng như tuân thủ các chính sách của những người quản lý với những thay đổi về cách hiểu đối với KSNB nhận được sự quan tâm ngày càng nhiều.
IIA định nghĩa về KSNB như là một hoạt động tư vấn và tư vấn độc lập, khách quan được thiết kế để tăng thêm giá trị và cải thiện hoạt động của một tổ chức. Nó giúp một tổ chức hoàn thành các mục tiêu của nó bằng cách đưa ra cách tiếp cận có hệ thống, có kỷ luật để đánh giá và nâng cao hiệu quả của quá trình quản lý rủi ro, kiểm soát và quản trị. KSNB là một phần của hệ thống giám sát nội bộ của một tổ chức, hệ thống này bao gồm tất cả các biện pháp giám sát và biện pháp phòng ngừa được đặt ra trong công ty để đảm bảo an toàn cho tài sản và đảm bảo tính chính xác độ tin cậy của hệ thống kế toán. Nhiệm vụ này được quản lý bằng các so sánh khách quan và dựa trên sự tuân thủ giữa điều kiện hiện tại và các tiêu chí được chấp nhận, theo yêu cầu của tất cả các chính sách, quy định và luật pháp hiện hành.
Theo INTOSAI (1992) KSNB là một quá trình do các nhà quản lý và mọi nhân viên của đơn vị chi phối, nó được thiết lập để cung cấp một sự đảm bảo hợp lý nhằm thực hiện các mục tiêu, báo cáo tài chính đáng tin cậy, các luật lệ và quy định được tuân thủ và hoạt động của tổ chức hữu hiệu và hiệu quả. Mặt khác KSNB là cơ cấu của một tổ chức, bao gồm nhận thức, phương pháp, quy trình và các biện pháp của người lãnh đạo nhằm bảo đảm sự hợp lý để đạt được các mục tiêu của tổ chức:
- Thúc đẩy các hoạt động hữu hiệu, hiệu quả và có kỷ cương cũng như chất lượng của sản phẩm, dịch vụ phù hợp với nhiệm vụ của tổ chức.
- Bảo vệ các nguồn lực không bị thất thoát, lạm dụng, lãng phí, tham ô và vi phạm pháp luật.
- Khuyến khích tuân thủ pháp luật, quy định của Nhà nước và nội bộ.
- Xây dựng và duy trì các dữ liệu tài chính, hoạt động, lập báo cáo tài chính đúng đắn và kịp thời.
Theo INTOSAI (2001) thì KSNB là một quá trình xử lý toàn bộ được thực hiện bởi nhà quản lý và cá nhân trong tổ chức, quá trình này được thiết kế để phát hiện các rủi ro và cung cấp một sự đảm bảo hợp lý để đạt được nhiệm vụ của tổ chức. Những mục tiêu cần đạt được là:
- Thực hiện các hoạt động một cách có kỷ cương, có đạo đức, có tính kinh tế, hiệu quả và thích hợp.
- Thực hiện đúng trách nhiệm.
- Tuân thủ theo luật pháp hiện hành và các nguyên tắc, quy định.
- Bảo vệ các nguồn lực chống thất thoát, sử dụng sai mục đích và tổn thất.
Theo INTOSAI (2009) và INTOSAI (2013) thì KSNB bao gồm 5 thành phần tạo nên, đó là:
- Môi trường kiểm soát
- Đánh giá rủi ro