đó là: (1) địa phương có khí hậu mát mẻ, thích hợp cho phát triển du lịch; (2) địa phương có nhiều hoạt động giải trí dựa trên các tài nguyên du lịch văn hóa thu hút khách. Cả 2 biến đo lường này đều được kết quả nghiên cứu chứng minh là có ảnh hưởng đến tính hấp dẫn của điểm đến và hình thành nên một mô hình mới mang tính đầy đủ hơn.
Bốn là, luận án của tác giả có thể là cơ sở, là căn cứ để đo lường tính hấp dẫn của điểm đến trong việc thu hút vốn các nhà đầu tư du lịch, cho khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ nói riêng và cho tất cả các tỉnh thành trong cả nước nói chung. Nó sẽ là một phần đóng góp giống như việc đo lường chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh ở mỗi tỉnh thành Việt Nam.
Năm là, các nghiên cứu trước đây về lĩnh vực thu hút vốn đầu tư cho ngành công nghiệp nói chung và cho ngành du lịch nói riêng, tất cả chỉ dừng lại ở việc xác định các nhân tố tác động đến tính hấp dẫn của điểm đến trong việc thu hút nhà đầu tư. Nghiên cứu của tác giả đã tiến thêm một bước mới hơn, tiến bộ hơn đó là chỉ rõ tác động của tính hấp dẫn điểm đến trong việc thu hút nhà đầu tư tới ý định đầu tư.
Sáu là, luận án này sử dụng kết hợp cả phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng. Với phương pháp nghiên cứu định lượng SEM, đã góp phần khẳng định kết quả mối quan hệ giữa tính hấp dẫn điểm đến du lịch với ý định đầu tư, với độ tin cậy cao. Đây là mối quan hệ chưa được thực hiện nghiên cứu và kiểm định ở các nghiên cứu trước đây.
1.7.2 Những đóng góp về mặt thực tiễn
Thứ nhất, luận án giúp quản lý nhà nước về du lịch mỗi địa phương sẽ hiểu rõ hơn các doanh nghiệp lữ hành, khách sạn họ thật sự cần và mong muốn địa phương cung cấp và tạo điều kiện cho họ những gì. Từ đó, địa phương sẽ có những chính sách về môi trường đầu tư, cơ sở hạ tầng, chính sách đào tạo lao động, chính sách về tài nguyên du lịch phù hợp với nhu cầu và mong muốn của nhà đầu tư. Qua đó hoạt động thu hút đầu tư của địa phương sẽ hiệu quả hơn.
Thứ hai, luận án có đề xuất xây dựng bộ tiêu chí đánh giá tính hấp dẫn điểm đến của mỗi địa phương qua các năm (tương tự như cách tính chỉ số PCI). Từ đó, giúp cho các doanh nghiệp nắm bắt được thông tin đầy đủ hơn và có cơ sở hơn trong việc so sánh, đánh giá và lựa chọn đầu tư giữa các tỉnh thành. Ngoài ra, bộ chỉ tiêu xác định điểm số về tính hấp dẫn của điểm đến này giúp cho chính quyền mỗi địa phương có cái nhìn thực tế về mức độ hấp dẫn của mỗi địa phương qua góc nhìn của doanh nghiệp sẽ chính xác hơn. Từ đó, chính quyền địa phương sẽ biết chính
Có thể bạn quan tâm!
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hấp dẫn của điểm đến du lịch trong việc thu hút vốn đầu tư du lịch tại vùng duyên hải Nam Trung Bộ - 1
- Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hấp dẫn của điểm đến du lịch trong việc thu hút vốn đầu tư du lịch tại vùng duyên hải Nam Trung Bộ - 2
- Thống Kê Lượng Vốn Đầu Tư Lũy Kế Đến Năm 2017
- Các Nhân Tố Thuộc Lợi Thế Địa Điểm Thu Hút Đầu Tư
- Tổng Hợp Động Cơ Tìm Kiếm Sự Hiệu Quả - Lợi Thế Chi Phí Kí Hiệu Tên Biến Đo Lường Nguồn
- Một Số Nghiên Cứu Thực Nghiệm Về Tính Hấp Dẫn Điểm Đến Trong Việc Thu Hút Nhà Đầu Tư Du Lịch Theo Lý Thuyết Động Cơ Đầu Tư
Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.
xác được nhân tố nào cần được cải thiện, nhân tố nào cần phát huy để thu hút vốn
đầu tư hiệu quả hơn.
1.8 Kết cấu của luận án
Kết cấu của luận án được chia làm 5 chương Chương 1: Giới thiệu chung về nghiên cứu Chương 2: Cơ sở lý thuyết và mô hình nghiên cứu Chương 3: Thiết kế nghiên cứu
Chương 4: Kết quả nghiên cứu
Chương 5: Kết luận và hàm ý chính sách
Tiểu kết chương 1
Chương này mục đích là giới thiệu khái quát về: (1) tính cấp thiết của đề tài, phần này tập trung làm rõ 2 phần chính đó là lý do thực tiễn và lý do trong nghiên cứu. Từ thực tiễn và lý luận hình thành nên nguyên nhân chính của đề tài; (2) mục tiêu nghiên cứu; (3) đối tượng và phạm vi nghiên cứu; (4) câu hỏi nghiên cứu; (5) phương pháp nghiên cứu; (6) đóng góp dự kiến của luận án; (7) kết cấu của đề tài.
Chương 2
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1 Một số khái niệm cơ bản về tính hấp dẫn của điểm đến trong việc thu hút vốn đầu tư trong du lịch
2.1.1 Khái niệm du lịch
Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về du lịch, đúng như Burneker từng nói: “Có bao nhiêu tác giả nghiên cứu về du lịch thì sẽ có bấy nhiêu định nghĩa”. Sở dĩ có rất nhiều cách hiểu khác nhau về du lịch là bởi vì góc nhìn khác nhau, ngôn ngữ hiểu khác nhau và sự tổng hợp nhiều lĩnh vực của hoạt động du lịch cho nên hình thành cách hiểu tổng hợp khác nhau. Ban đầu “Du lịch” được hiểu là sự di chuyển của con người và lưu trú tạm thời ngoài nơi cư trú thường xuyên. Tuy nhiên, nếu hiểu theo cách này thì gần như các hoạt động di chuyển làm việc, hành nghề, chiến tranh... từ địa phương này sang địa phương khác đều được hiểu là du lịch. Chính vì lý do đó, các nhà nghiên cứu đã đưa ra các định nghĩa du lịch cụ thể hơn như sau:
Xét trên khía cạnh Cầu du lịch, Hunziker và Kraft (trích dẫn trong Nguyễn Văn Đính và Trần Thị Minh Hòa, 2008, trang 15) là những giáo sư đầu ngành, đặt nền móng cho lý thuyết Cung du lịch, cho rằng: “Du lịch là tổng hợp các mối quan hệ và các hiện tượng phát sinh trong các cuộc hành trình và lưu trú tạm thời của những người ngoài địa phương, nếu việc lưu trú đó không liên quan đến mục đích kiếm lời”. Với định nghĩa này, xét về mặt không gian, thời gian và mục đích chuyến đi thì chấp nhận được nhưng mục đích chuyến đi tương đối rộng, làm loại bỏ những đối tượng kết hợp đi du lịch và kinh doanh.
Xét trên khía cạnh kinh tế học, Kalfiotis (1972) cho rằng: “Du lịch là sự di chuyển tạm thời của các cá nhân hay tập thể từ nơi ở đến nơi khác nhằm thoả mãn các nhu cầu tinh thần, đạo đức do đó tạo nên các hoạt động kinh tế”. Định nghĩa này về cơ bản thể hiện đầy đủ tính không gian, thời gian, mục đích chuyến đi. Tuy nhiên, mục đích chuyến đi chỉ đơn thuần về giải trí, sức khỏe, tôn giáo mà chưa xét đến các yếu tố du lịch công vụ, kinh doanh.
Xét trên khía cạnh Cung du lịch, Nguyễn Văn Đính và Nguyễn Thị Minh Hòa (2008) cho rằng: “Du lịch là quá trình tổ chức các điều kiện về sản xuất và phục vụ nhằm thỏa mãn, đáp ứng các nhu cầu của người đi du lịch”
Luật du lịch (2017): “Du lịch là các hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú thường xuyên trong thời gian không quá 01 năm liên tục
nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, nghỉ dưỡng, giải trí, tìm hiểu, khám phá tài nguyên du lịch hoặc kết hợp với mục đích hợp pháp khác”.
Hầu hết các định nghĩa trên đều đảm bảo về mặt không gian, thời gian và mục đích chuyến đi nhưng về cơ bản các định nghĩa này có thời gian, không gian chưa rõ ràng cụ thể.
Các tổ chức thống kê về du lịch quốc tế, nhóm họp ở Otawa, Canada vào tháng 6 năm 1991 đã đưa ra định nghĩa: “Du lịch là hoạt động của con người đi tới một nơi ngoài môi trường thường xuyên (nơi ở thường xuyên, các chuyến đi định kỳ có tổ chức giữa nơi ở và nơi làm việc), trong một khoảng thời gian đã được các tổ chức du lịch quy định trước, với mục đích của chuyến đi không phải là để tiến hành các hoạt động kiếm tiền trong phạm vi vùng tới thăm”.
Với định nghĩa này, thời gian, không gian, mục đích chuyến đi tương đối rõ ràng và đầy đủ hơn so với các định nghĩa trên. Do vậy, định nghĩa này thường được rất nhiều các tổ chức, các quốc gia trên thế giới sử dụng trong hoạt động du lịch và nghiên cứu du lịch.
2.1.2 Điểm đến du lịch
Van Raaij (1986) đã xác định một điểm đến du lịch như là một bộ các thuộc tính gồm 2 phần, đó là phần “sẵn có” và một phần là do “bổ sung”. Trong phần “sẵn có”, có một số tính năng tự nhiên của một điểm đến du lịch, chẳng hạn như khí hậu, cảnh quan, bãi biển, núi, các tòa nhà, văn hóa lịch sử,... Trong phần "bổ sung", có các tính năng như khách sạn và phương tiện giao thông, tour du lịch trọn gói và tiện nghi; các hoạt động thể thao và giải trí... Các hoạt động bổ sung này có thể được điều chỉnh theo sở thích của khách hàng, nhưng tùy thuộc vào ngân sách của từng địa phương, từng quốc gia.
Hu và Ritchie (1993) cho rằng: “Điểm đến du lịch là các cơ sở và dịch vụ du lịch, giống như bất kỳ sản phẩm tiêu dùng khác bao gồm một số thuộc tính đa chiều”.
Kim (1998) đưa ra khái niệm: “Điểm đến du lịch có thể được xem là một gói các dịch vụ và cơ sở du lịch, giống như bất kỳ hàng hóa và dịch vụ khác bao gồm một số thuộc tính đa chiều cùng nhau xác định mức độ hấp dẫn của nó đối với một khách du lịch đặc biệt trong một tình huống du lịch nhất định”.
Park và Gretzel (2007) cho rằng: “Điểm đến du lịch bao gồm tất cả các yếu tố của một nơi không phải là nhà. Thường bao gồm cảnh quan để ngắm cảnh, để tham gia các hoạt động và những kỷ niệm đáng nhớ tạo nên sự thu hút khách du lịch rời khỏi nhà của họ”
Cracolici và Nijkamp (2009) cho rằng: “Điểm đến du lịch là tổng hợp các nguồn lực tự nhiên, văn hóa, nghệ thuật, môi trường khác biệt tạo nên một sản phẩm tổng thể thu hút du khách”.
Tựu trung lại, các định nghĩa trên đều cho rằng điểm đến du lịch bao gồm các thành phần “sẵn có” như tài nguyên thiên nhiên, cảnh quan, văn hóa, lịch sử, khí hậu, phong tục tập quán... và thành phần “bổ sung” như khách sạn, phương tiện giao thông, chương trình du lịch, chính sách của chính phủ tạo nên sự hấp dẫn đối với du khách và nhà đầu tư.
2.1.3 Tính hấp dẫn điểm đến du lịch
Mayo và Jarvis (1981) đưa ra khái niệm về hấp dẫn điểm đến là: “Khả năng nhận thức về điểm đến để mang lại lợi ích cho cá nhân hoặc tập thể”
Gartrell (1994) đưa ra khái niệm: “Tính hấp dẫn điểm đến du lịch là những vùng
địa lý có những thuộc tính, tính năng và dịch vụ hấp dẫn”
Theo Hu và Ritchie (1993:25) tính hấp dẫn điểm đến: “Phản ánh cảm nhận, niềm tin, và ý kiến mỗi cá nhân có được về khả năng làm hài lòng cá nhân đó của mỗi điểm đến”. Laws (1995) đã đưa ra quan điểm cụ thể rõ ràng hơn, Laws đã gợi ý rằng các thuộc tính điểm đến cần được nhóm lại thành hai nhóm chính. Nhóm 1 bao gồm các đặc tính căn nguyên như khí hậu, sinh thái, tài nguyên thiên nhiên, văn hoá và kiến trúc lịch sử.... Nhóm 2 bao gồm các đặc tính bổ sung là những phát triển làm gia tăng thêm giá trị điểm đến và phục vụ du khách ở đó như khách sạn, ăn uống, vận chuyển, sinh hoạt và giải trí...
Lumsdon (1997) đã phát triển 2 đặc tính căn nguyên và đặc tính bổ sung của Laws (1995) một cách cụ thể, rõ ràng và chi tiết hơn khi cho rằng: “Tính hấp dẫn của điểm đến du lịch được hiểu là tổng hợp một số yếu tố được kết hợp với nhau để thu hút khách du lịch”. Lumsdon cho rằng có 4 nhóm nhân tố cốt lõi quyết định tính hấp dẫn của điểm đến du lịch: “ (1) Tài nguyên tự nhiên và nhân tạo, (2) các dịch vụ cung cấp hỗ trợ, (3) nhóm yếu tố văn hóa-xã hội, (4) Các yếu tố thu hút cốt lõi”.
Gunn (2002) đã tuyên bố nổi tiếng rằng không có du lịch hấp dẫn sẽ không có khách du lịch. Ritchie và cộng sự (2000) đã phân loại tính hấp dẫn thành 3 nhóm yếu tố chính. Một là, các hoạt động tham quan hấp dẫn có thể chia thành 5 nhóm: (1) văn hoá (ví dụ như viện bảo tàng, phòng trưng bày, nhà thờ, lâu đài...), (2) thiên nhiên (như các bãi biển, núi, hồ), (3) các sự kiện (lễ hội, thể thao), (4) giải trí ban ngày (ví dụ như chèo thuyền, leo núi, trượt tuyết), và (5) giải trí buổi đêm (Buhalis, 2000; Brent Ritchie, 1984; Swarbrooke và Page, 2012). Hai là, các hoạt động liên quan đến các
dịch vụ hỗ trợ như vận chuyển, ăn ở, thực phẩm, sức khoẻ và mua sắm (Vengesayi, 2008). Ba là, liên quan đến môi trường trải nghiệm (Baker và cộng sự, 1994) nghĩa là nơi trải nghiệm du lịch xảy ra, bao gồm các vấn đề về địa lý, khí hậu, cũng như môi trường xã hội.
2.1.4 Tính hấp dẫn điểm đến trong việc thu hút đầu tư
Các khái niệm ở trên đa phần các tác giả đến cập đến các đặc tính của địa phương trong việc thu hút khách du lịch. Các khái niệm này cho nhà đầu tư cái nhìn được các đặc tính địa phương thu hút khách, đó cũng là một trong những yếu tố thu hút nhà đầu tư tiếp cận và đầu tư vào địa phương.
2.14.1 Khái niệm về đầu tư
Sachs và Larrain (1993) cho rằng: "Đầu tư là phần sản lượng được tích luỹ để tăng năng lực sản xuất trong thời kỳ sau của nền kinh tế". Phần sản lượng ở đây được hiểu là của cải, công nghệ, sản phẩm, tài sản hữu hình và vô hình…
Theo Sachs và Larrin (1993) cho rằng xét theo khía cạnh vĩ mô thì vốn đầu tư phân làm 2 loại đó là vốn trong nước và vốn nước ngoài. Vốn trong nước gồm vốn khu vực tư nhân và vốn nhà nước. Vốn nước ngoài bao gồm các khoản vay nợ, kiều hối, viện trợ, đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. (Bài nghiên cứu chỉ tập trung vào nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn tư nhân ở trong nước vì 2 nguồn vốn này thể hiện lý do đầu tư xuất phát từ lợi ích nhà đầu tư ít bị tác động bởi các yếu tố khác).
2.1.4.2. Khái niệm về tính hấp dẫn điểm đến thu hút đầu tư
Có khá ít khái niệm về tính hấp dẫn điểm đến trong việc thu hút đầu tư. Lý do có thể là do 2 nguyên nhân chính: một là, có rất ít nghiên cứu về thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực du lịch; hai là, thuật ngữ tính hấp dẫn điểm đến là thuật ngữ thông thường có thể giải thích dễ dàng theo nghĩa thông thường là: (1) Tính là các thuộc tính, đặc tính;
(2) hấp dẫn là thu hút; vậy tính hấp dẫn điểm đến có thể hiểu là các thuộc tính, đặc tính của điểm đến trong việc thu hút nhà đầu tư. Tuy nhiên, để có thể hiểu rõ một cách sâu sắc hơn ta có thể xem các nghiên cứu đề cập vấn đề này như sau:
Theo Dunning (1981) ông cho rằng tính hấp dẫn của điểm đến là những lợi thế của địa điểm riêng hấp dẫn nhà đầu tư. Ông cho rằng: “Sự thu hút của địa điểm riêng là những lợi thế nảy sinh từ việc sử dụng các nguồn lực hoặc tài sản sẵn có gắn liền với một địa điểm cụ thể ở nước ngoài và cũng là những lợi thế có giá trị khi công ty kết hợp chúng với các tài sản riêng có của mình (ví dụ như các bí quyết công nghệ, marketing hoặc quản lý của công ty)”. Như vậy, theo khía cạnh này thì Dunning cho
rằng một địa phương có các đặc tính thu hút nhà đầu tư khi địa phương đó có các lợi thế về thị trường, lợi thế về tài nguyên, lợi thế về hiệu quả đầu tư, lợi thế về tài sản chiến lược.
Van de Ven và Walker (1984) “Tính hấp dẫn đầu tư của điểm đến là những lợi ích kinh tế vượt trội, hoặc quyền truy cập vào các nguồn lực tài nguyên để phát triển lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp” (Morgan, 2000).
Harris và cộng sự (2003) cho rằng: “Tính hấp dẫn đầu tư của điểm đến được định nghĩa là mức độ mà các đối tác quan hệ nhận thấy các điểm đến tiềm năng trong quá khứ, hiện tại, tương lai hoặc hấp dẫn về khả năng cung cấp kinh tế vượt trội lợi ích, tiếp cận các nguồn lực quan trọng và tương thích xã hội”.
Về cơ bản cả hai khái niệm của Van de Ven & Walker và Harris & cộng sự, đều cho rằng tính hấp dẫn đầu tư của điểm đến đều mang lại những lợi ích về mặt kinh tế hoặc lợi ích về sử dụng các nguồn lực tài nguyên, đồng thời phải tương thích phù hợp với luật pháp, văn hóa xã hội của địa phương. Khái niệm này cũng có nghĩa gần tương đồng với khái niệm của Dunning, nhưng bổ sung thêm yếu tố tương thích với luật pháp và văn hóa xã hội.
Có thể kết hợp 3 khái niệm này lại ta có thể hình dung các nhân tố hình thành nên tính hấp dẫn điểm đến thu hút vốn đầu tư có thể là: lợi thế thị trường, lợi thế tài nguyên, lợi thế về sự hiệu quả đầu tư, lợi thế tài sản chiến lược và sự tương thích với thể chế xã hội của địa phương đầu tư. Để hiểu rõ hơn một số nhóm nhân tố tạo nên sự thu hút các nhà đầu tư du lịch, thì chúng ta cần tìm hiểu và nghiên cứu một số lý thuyết và nghiên cứu thực nghiệm về thu hút vốn đầu tư ở phần tiếp theo sau.
2.2 Một số lý thuyết về tính hấp dẫn của điểm đến trong việc thu hút vốn
đầu tư
2.2.1 Lý thuyết địa điểm sản xuất quốc tế
Greenhut (1952) đề xuất lý thuyết địa điểm sản xuất quốc tế liên quan đến cả hai biến định hướng cung và cầu ảnh hưởng đến sự phân phối không gian của các quá trình sản xuất, nghiên cứu và phát triển, và quản trị các công ty. Không giống như lý thuyết thương mại, nó không liên quan đến sự phân công lao động giữa các quốc gia. Lý thuyết về địa điểm sản xuất quốc tế đã phát triển theo 2 cách tiếp cận:
Cách tiếp cận đầu tiên, phần lớn có nguồn gốc ở Đức. Giả sử với quy mô và phân phối thị trường nhất định, mỗi công ty là một công cụ tối đa hóa lợi nhuận hoạt động trong tình hình giá cả chung, sản xuất sẽ được đặt ở nơi có chi phí thấp. Lý thuyết này