Thống Kê Lượng Vốn Đầu Tư Lũy Kế Đến Năm 2017



Vì các lý do chính ở trên, việc có một nghiên cứu xác định đầy đủ các nhân tố tác động đến tính hấp dẫn của điểm đến trong việc thu hút đầu tư du lịch là một hoạt động hết sức cần thiết và quan trọng. Đây cũng chính là cơ sở để tác giả định hướng lựa chọn đề tài cho nghiên cứu của mình.

1.2.2 Về mặt thực tiễn

Từ góc độ thực tiễn, việc thu hút đầu tư du lịch tại các vùng du lịch ở Việt Nam đang đặt ra những vấn đề cần giải quyết để phát triển du lịch Việt Nam theo định hướng bền vững như sau:

Thứ nhất, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, trong đó chính phủ xác định nguồn vốn ngân sách đầu tư vào lĩnh vực du lịch chiếm tỷ trọng khoảng 8% đến 10% (bao gồm vốn ODA), còn lại nguồn vốn đóng vai trò chính cho sự phát triển của du lịch địa phương đó là nguồn vốn tư nhân (bao gồm cả vốn FDI). Điều này góp phần khẳng định Đảng và Nhà nước xác định sự phát triển của một đất nước nói chung, của một địa phương nói riêng dựa vào nguồn vốn đầu tư khu vực tư nhân. Điều này cũng chỉ ra rằng, một địa phương muốn phát triển thì cần phải thu hút được nhiều nguốn vốn đầu tư từ khu vực tư nhân. Chính vì vậy, muốn phát triển du lịch tại ở địa phương thì chính quyền địa phương phải xác định được các nhân tố chính có ảnh hưởng, thu hút các nhà đầu tư thuộc khu vực tư nhân này là gì. Đây là vấn đề thực tiễn đặt ra cho các nhà nghiên cứu cần phải giải quyết trong thời gian tới.

Thứ hai, Vùng Bắc Trung Bộ và Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ đều có các tỉnh tiếp giáp với biển thuận lợi cho phát triển du lịch biển đảo, du lịch nghỉ dưỡng... Tuy nhiên, vùng Bắc Trung Bộ có mùa đông lạnh do tiếp giáp khí hậu lạnh của Bắc Bộ nhưng ngắn ngày, nhiệt độ trong năm thường cao, hứng chịu rất nhiều cơn bão trong năm. Vùng Duyên hải Nam Trung Bộ tiếp giáp phía nam nên khí hậu ấm áp hơn, thuận lợi phát triển du lịch biển. Đây là vùng đất hội nhập của 4 nền văn hóa Chăm Pa,Việt Nam, Trung Quốc và Ấn Độ với các phong tục, tập quán, văn hóa và nhiều di tích kiến trúc cổ vô cùng phong phú rất thuận lợi cho phát triển du lịch văn hóa lịch sử, du lịch tâm linh. Chính sự khác biệt này với vùng Bắc Trung Bộ đã tạo nên một nét phát triển du lịch rất riêng của vùng đất này, đó là phát triển du lịch biển đảo gắn với văn hóa lịch sử, tâm linh.

Mặc dù có rất nhiều thuận lợi để phát triển như vậy nhưng vùng đất này có sự phát triển du lịch không tương xứng với tiềm năng của vùng. Đồng thời, giữa các tỉnh của vùng này cũng có sự phát triển không đồng đều. Cụ thể, Vùng đất Duyên hải Nam



Trung Bộ bắt đầu từ phía nam là thành phố du lịch biển đảo, Bình Thuận với cái nắng, gió đặc trưng và bãi cát vàng có độ dốc thoải thích hợp cho phát triển du lịch trượt cát. Hướng về phía bắc, kết thúc vùng đất trù phú này là thành phố Đà Nẵng rất phát triển du lịch biển, du lịch tâm linh, du lịch nghỉ dưỡng... Mỗi tỉnh trên vùng đất này đều có bờ biển kéo dài, rất thuận lợi cho phát triển du lịch biển và nghỉ dưỡng. Bình Thuận có Mũi Né từ lâu đã nổi tiếng trong và ngoài nước; Ninh Thuận có bãi biển Cà Ná, Ninh Chữ; Khánh Hòa rất nổi tiếng về du lịch biển đảo, nghỉ dưỡng như Vinpearl Land, đảo Bình Ba, Bình Tiên, Hòn Mun, Hòn Tằm; Phú Yên có rất nhiều bãi biển đẹp chưa được đầu tư khai thác như Mũi Điện, Bãi Môn, Gành đá đĩa..; cũng như Phú Yên vùng đất Bình Định rất nổi tiếng với các bãi biển, hòn đảo chưa được nhà đầu tư khai thác như: Bãi tắm hoàng hậu, Biển Trung Lương ở Phù Cát, đảo Hòn Đất, Hòn Sẹo, Hòn Khô, Cù Lao Xanh, Kỳ Co như Vịnh Hạ Long thu nhỏ...; Tỉnh Quảng Ngãi có biển Dung Quốc, Mỹ Khê, Sa Huỳnh...; Quảng Nam có bãi biển Quảng Nam, An Bàng, Cửa Đại...; Đà Nẵng có biển Tiên Sa, Mỹ Khê, Sơn Trà;… từ lâu đã được du khách trong và ngoài nước biết đến. Tuy nhiên, có sự phát triển không tương đồng về thu hút du khách và thu hút vốn đầu tư du lịch giữa các tỉnh, thành phố trực thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Những điểm du lịch tại Bình Thuận, Nha Trang, Quảng Nam, Đà Nẵng đã trở thành thương hiệu có tiếng trong nước và quốc tế, thu hút rất nhiều du khách du lịch và các nhà đầu tư du lịch trong và ngoài nước. Đối với các tỉnh còn lại như Ninh Thuận, Phú Yên, Bình Định và Quảng Ngãi mặc dù tiềm năng về du lịch không thua kém các tỉnh khác ở vùng Duyên hải Nam Trung Bộ song vẫn chưa thể thu hút được nhiều du khách và vốn đầu tư du lịch so với các tỉnh cùng khu vực. Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến sự không đồng đều trong việc thu hút vốn đầu tư du lịch. Từ đây, thực tiễn đặt ra vấn đề cho các nhà nghiên cứu: (1) Đâu là các nhân tố chính có ảnh hưởng, thu hút các nhà đầu tư du lịch tại khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ; (2) Nhân tố nào là quan trọng nhất, có tính quyết định nhất trong việc lựa chọn địa phương của nhà đầu tư? Từ vấn đề thực tiễn này, đặt ra hướng nghiên cứu cho các nhà nghiên cứu nói chung và cho chính tác giả nói riêng trong việc định hướng nghiên cứu của mình trong tương lai.

Thứ ba, các tỉnh thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ này thực sự chưa có 1 nghiên cứu thực nghiệm nào cụ thể cho vấn đề du lịch, cho nên các địa phương này gần như việc thu hút vốn đầu tư cứ chăm chăm cải thiện chỉ số PCI. Bản thân các nhà lãnh đạo cứ quá chú trọng chỉ số này mà không biết nhân tố nào là quan trọng nhất trong thu hút vốn đầu tư du lịch. Tác giả có thể minh chứng điều này qua thống kê sau:


Bảng 1.1: Thống kê lượng vốn đầu tư lũy kế đến năm 2017


Tỉnh

Số lượng dự án

Vốn lũy kế đến 2017 (triệu USD)

PCI 2017

Đà Nẵng

526

4.675,3

70,11

Quảng Nam

170

5.816,3

65,41

Quảng Ngãi

46

1.449,6

63,16

Bình Định

73

671,8

64,08

Phú Yên

44

4.969,0

60,59

Khánh Hòa

99

4.175,1

63,36

Ninh Thuận

40

1.302,5

61,6

Bình Thuận

136

3.566,8

63,34

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 178 trang tài liệu này.

Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hấp dẫn của điểm đến du lịch trong việc thu hút vốn đầu tư du lịch tại vùng duyên hải Nam Trung Bộ - 3

Nguồn: Tổng hợp số liệu tổng cục thống kê

Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy rằng chỉ số PCI của Đà Nẵng là tốt nhất tuy nhiên lượng vốn đầu tư của Quảng Nam mới là lớn nhất trong vùng Duyên hải Nam Trung Bộ này. Bình Định có chỉ số PCI gần tương đương Quảng Nam và cao hơn cả Bình Thuận và Khánh Hòa vậy mà lượng vốn thu hút đầu tư là thấp nhất Vùng. Vậy vấn đề đặt ra trong thực tiễn ở đây là chỉ số PCI có tác động đến quyết định của nhà đầu tư hày không? Mức độ tác động như thế nào?. Đây cũng chính là vấn đề cần đặt ra cho các nhà nghiên cứu trong tương lai.

Xuất phát từ những hạn chế ở các nghiên cứu thực nghiệm và vấn đề thực tiễn đặt ra ở trên, cùng với tâm huyết nghiên cứu về vấn đề này đã lâu, cho nên tác giả quyết định lựa chọn hướng nghiên cứu: “Các nhân tố ảnh hưởng đến tính hấp dẫn của điểm đến trong việc thu hút vốn đầu tư du lịch tại vùng Duyên hải Nam Trung Bộ” làm đề tài cho luận án của tác giả.

1.3 Mục tiêu nghiên cứu

Mục tiêu chung của luận án là xác định các nhân tố và phát hiện thành phần mới trong các nhân tố tác động đến tính hấp dẫn của điểm đến để thu hút các nhà đầu tư du lịch. Với các mục tiêu cụ thể là:

Thứ nhất, luận án này góp phần chỉ ra lý thuyết cơ sở cho việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tính hấp dẫn điểm đến. Xác định cơ sở lý thuyết để xác định rõ mối quan hệ giữa tính hấp dẫn điểm đến và ý định đầu tư du lịch của nhà đầu tư



Thứ hai, luận án này chỉ ra các nhân tố quan trọng góp phần tạo nên tính hấp dẫn của điểm đến trong việc thu hút vốn đầu tư du lịch. Trên cơ sở đó, tác giả lượng hóa được mức độ tác động của các nhân tố; lượng hóa được mức độ hấp dẫn của mỗi tỉnh thuộc khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ trong việc thu hút vốn đầu tư.

Thứ ba, dựa trên kết quả nghiên cưu cả định tính và định lượng để chỉ ra phần mới trong các nhân tố, có ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư du lịch, phù hợp với đặc thù và bối cảnh ở Việt Nam mà các nghiên cứu trước đây chưa đề cập và lượng hóa nó.

Thứ tư, xác định được mối quan hệ giữa tính hấp dẫn của điểm đến và ý định đầu tư du lịch. Hầu hết các nghiên cứu trước đây chỉ dừng lại ở việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư hoặc các nhân tố ảnh hưởng đến tính hấp dẫn trong việc thu hút đầu tư.

Thứ năm, luận án sẽ xây dựng được bộ tiêu chí đánh giá tính hấp dẫn của điểm đến du lịch ở mỗi tỉnh thành. Từ đó, chính quyền địa phương có thể nhìn vào đó xác định được các điểm yếu, điểm mạnh về thu hút vốn đầu tư du lịch. Về phía nhà đầu tư, họ có thể nhìn vào đó để so sánh, đánh giá giữa các tỉnh, từ đó có quyết định lựa chọn địa điểm đầu tư hiệu quả hơn.

1.4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

1.4.1 Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu các nhân tố tác động đến tính hấp dẫn của điểm đến trong việc thu hút vốn đầu tư du lịch thuộc vùng du lịch cụ thể và mối quan hệ giữa tính hấp dẫn điểm đến tác động đến ý định đầu tư du lịch.

1.4.2 Phạm vi nghiên cứu

1.4.2.1 Phạm vi không gian và thời gian

Đề tài luận án tập trung nghiên cứu đo lường các nhân tố tác động đến tính hấp dẫn của điểm đến trong việc thu hút các nhà đầu tư du lịch thuộc khu vực tư nhân ở các tỉnh thuộc khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ với dữ liệu khảo sát được thực hiện đối với các nhà đầu tư từ tháng 3 năm 2017 đến 3 năm 2019.

1.4.2.2 Phạm vi nội dung

Nội dung của luận án tập trung xác định vốn đầu tư về lĩnh vực du lịch một cách rõ ràng trong ngành. Cụ thể, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu các nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực khách sạn, resort, khu du lịch có tiêu chuẩn từ 3 sao trở lên. Để tìm ra được



các nhân tố ảnh hưởng một cách rõ ràng, khách quan nên tác giả chỉ nghiên cứu nguồn vốn thuộc vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và nguồn vốn tư nhân ở trong nước. Vì nguồn vốn viện trợ như ODA, các khoản vay nợ, kiều hối... rất ít đầu tư vào du lịch, và các nguồn vốn này chủ yếu mang tính chất tài trợ, hỗ trợ cho quốc gia hoặc địa phương, hoặc có thể mang tính chất chính trị… cho nên tính khách quan trong việc thu hút vốn đầu tư du lịch không mang tính rõ ràng. Chính vì điều này, tác giả xin phép được bỏ qua không xem xét, đánh giá; không thu thập thông tin, dữ liệu về nguồn vốn này. Bên cạnh đó, nguồn vốn đầu tư của nhà nước tác giả cũng không thu thập và nghiên cứu vì nguồn vốn này đa số tập trung đầu tư phục vụ cho cơ sở hạ tầng và các dịch vụ hỗ trợ ở địa phương. Vì thế, tính hiệu quả và khách quan của nguồn vốn nhà nước là không rõ ràng.

1.4.3 Đối tượng khảo sát

Đối với nghiên cứu định tính: nghiên cứu tập trung phỏng vấn các chuyên gia trong lĩnh vực du lịch; các chuyên gia về đầu tư du lịch; các nhà đầu tư, các nhà quản lý các khách sạn, nhà hàng, các khu du lịch tại các tỉnh thuộc 8 tỉnh Duyên hải Nam Trung Bộ.

Đối với nghiên cứu định lượng: nghiên cứu tập trung khảo sát các nhà đầu tư, các nhà quản lý của các khách sạn, resort, khu du lịch có quy mô từ 3 sao trở lên thuộc khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ.

1.5. Câu hỏi nghiên cứu

Mục tiêu chính của nghiên cứu là nhằm xác định các nhân tố tác động đến tính hấp dẫn của điểm đến trong việc thu hút các nhà đầu tư trong lĩnh vực du lịch; xác định mối quan hệ giữa tính hấp dẫn điểm đến du lịch và ý định đầu tư du lịch. Từ kết quả có được, tác giả cố gắng xây dựng bộ tiêu chí ước tính mức độ hấp dẫn đầu tư cho mỗi tỉnh thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ nói riêng và cho cả nước nói chung. Để giải quyết vấn đề này, nghiên cứu tập trung trả lời 3 câu hỏi nghiên cứu chính sau:

1. Những nhân tố nào tác động đến tính hấp dẫn của điểm đến du lịch trong việc thu hút vốn đầu tư du lịch? Môi trường đầu tư có tác động đến tính hấp dẫn điểm đến đầu tư hay không?

2. Mối quan hệ giữa những nhân tố tạo nên tính hấp dẫn của điểm đến với ý định đầu tư của nhà đầu tư du lịch? Và cụ thể là ứng với trường hợp của vùng Duyên hải Nam Trung Bộ thì kết quả như thế nào?



3. Mức độ tác động của các nhân tố đến tính hấp dẫn của điểm đến là như thế nào? Và mức độ tác động của tính hấp dẫn của điểm đến đối với ý định đầu tư là như thế nào?

1.6. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp nghiên cứu áp dụng cho đề tài này gồm phương pháp nghiên cứu định tính và phương pháp nghiên cứu định lượng. Nghiên cứu này được thực hiện gồm nghiên cứu sơ bộ và nghiên cứu chính thức.

1.6.1 Nghiên cứu sơ bộ

Nghiên cứu sơ bộ gồm nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng sơ bộ.

1.6.1.1 Nghiên cứu định tính:

Nghiên cứu định tính được tác giả thực hiện qua 4 công đoạn cơ bản như sau:

Công đoạn 1: Nghiên cứu khám phá

Tác giả gửi đến nhà quản lý, nhà đầu tư bằng các phiếu khảo sát gồm các câu hỏi mở phi cấu trúc để khảo sát các nhà quản lý và chủ sở hữu thuộc khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ (bao gồm chủ sở hữu, nhà quản lý khách sạn, resort, khu du lịch từ 3 sao trở lên).

Công đoạn 2: Phỏng vấn sâu

Tác giả tiến hành phỏng vấn sâu các chuyên gia trong lĩnh vực thu hút vốn đầu tư du lịch. Các chuyên gia là đại diện cho sở kế hoạch đầu tư và đại diện cho trung tâm xúc tiến đầu tư du lịch thuộc vùng Duyên hải Nam Trung Bộ. Ngoài ra, tác giả còn phỏng vấn sâu các chuyên gia nghiên cứu trong lĩnh vực du lịch thuộc các viện và trường đại học trong nước. Bên cạnh đó, tác giả tiến hành phỏng vấn sâu các nhà đầu tư lớn về du lịch trong khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ. Việc phỏng vấn sâu các chuyên gia và các nhà đầu tư nhằm khai thác thêm các nhân tố mới, các biến đo lường mới chưa được khám phá hết ở công đoạn 1.

Công đoạn 3: Thảo luận nhóm

Tác giả tiến thảo luận nhóm với các chuyên gia và nhà đầu tư. Họ là những chuyên gia, những nhà đầu tư có kinh nghiệm, có kiến thức chuyên sâu về lĩnh vực du lịch và thu hút vốn đầu tư trong du lịch nhằm hoàn thiện bảng câu hỏi khảo sát.

Công đoạn 4: Khảo sát thử nghiệm

Tác giả tiến hành khảo sát thử nghiệm bằng bảng câu hỏi khảo sát sau khi đã hiệu chỉnh và bổ sung từ 3 công đoạn trên. Phiếu khảo sát này được gửi đến cho các nhà



quản lý, chủ đầu tư các khách sạn, resort, khu du lịch từ 3 sao trở lên thuộc khu vực Duyên hải Nam Trung Bộ. Với phương pháp lấy mẫu thuận tiện, các nhà đầu tư, các nhà quản lý được khuyến khích chỉnh sửa, góp ý cho bất kỳ câu hỏi nào họ cảm thấy khó hiểu, mơ hồ, dễ hiểu nhầm sang ý khác...; ngoài ra họ còn được khuyến khích thêm vào các câu hỏi mà theo họ nó có ảnh hưởng đến việc thu hút đầu tư đối với họ. Công đoạn này nhằm chỉnh sửa bản câu hỏi khảo sát thử nghiệm trước khi đưa ra khảo sát thực.

1.6.1.2 Nghiên cứu định lượng sơ bộ

Trên cơ sở nghiên mô mình nghiên cứu và lý thuyết nền, kết hợp với nghiên cứu định tính, tác giả đã hoàn thiện các biến quan sát, đo lường các nhân tố. Từ đó hình thành nên bảng câu hỏi sơ bộ để phục vụ cho việc nghiên cứu định lượng sơ bộ.

Trước tiên tác giả tiến hành kiểm tra độ tin cậy và giá trị của thang đo qua hệ số Cronbach’s Alpha. Sau đó, tác giả tiến hành bước tiếp theo là phân tích nhân tố khám phá EFA (Exploratory Factor Analysis), bước này giúp chúng ta đánh giá: giá trị hội tụ, giá trị phân biệt và giá trị nội dung của thang đo. Đây chính là 2 bước quan trọng và cần thiết trước khi chúng ta tiến hành phân tích CFA, kiểm định các giả thuyết và lý thuyết khoa học, đồng thời là bước cơ bản trước khi sử dụng thang đo này cho nghiên cứu định lượng chính thức (Hair và cộng sự, 2010; Meyers và cộng sự, 2016).

1.6.2 Nghiên cứu định lượng chính thức

Với nghiên cứu định lượng chính thức tác giả tiến hành điều tra khảo sát thu thập dữ liệu sơ cấp bằng bảng câu hỏi khảo sát các nhà đầu tư. Khoảng 500 phiếu khảo sát sẽ được gửi đến nhà đầu tư về khách sạn và các điểm tham quan giải trí du lịch.

Công cụ phân tích dữ liệu: Tác giả sử dụng phần mềm SPSS 22 để xử lý các dữ liệu thu thập được thông qua bảng câu hỏi khảo sát các nhà đầu tư du lịch.

Phương pháp phân tích:

1. Tiến hành kiểm định thang đo nghiên cứu bằng hệ số Cronbach’s alpha

2. Tiến hành kiểm định thang đo bằng phân tích EFA

3. Tiến hành kiểm định thang đo bằng phân tích CFA

4. Kiểm định giả thuyết nghiên cứu và mô hình nghiên cứu

5. Phân tích đa cấu trúc kiểm định sự khác biệt

1.7 Những đóng góp mới của luận án

Nghiên cứu đề tài này sẽ mang lại những đóng góp mới cho khoa học và thực tiễn như sau.


1.7.1 Những đóng góp về mặt lý luận và phương pháp nghiên cứu

Một là, luận án góp phần sắp xếp và hệ thống hóa lý thuyết riêng, đặc thù cho tính hấp dẫn của điểm đến trong việc thu hút các nhà đầu tư du lịch. Phần lớn các nghiên cứu trên thế giới chỉ đề cập đến là các nhân tố thu hút vốn đầu tư du lịch, có rất ít nghiên cứu đề cập đến tính hấp dẫn của điểm đến trong việc thu hút đầu tư du lịch. Hầu như, các nghiên cứu trước đây nghiên cứu cho lĩnh vực thu hút đầu tư thường sử dụng lý thuyết chiết trung của Dunning, lý thuyết thể chế, lý thuyết lợi thế độc quyền, lý thuyết địa điểm sản xuất quốc tế... Hầu hết các nghiên cứu dựa vào các lý thuyết trên, đều mắc phải một nhược điểm đó là chưa phân nhóm nhân tố tác động theo động cơ đầu tư. Từ đó, nảy sinh ra vấn đề là mỗi nghiên cứu phân loại các nhóm nhân tố tác động có sự khác nhau. Chính vì vậy, trong nghiên cứu của mình, tác giả sử dụng lý thuyết động cơ đầu tư, nhằm phân nhóm các nhân tố ảnh hưởng một cách khoa học mà hầu hết các nghiên cứu trước đây ít đề cập. Ngoài ra, tác giả còn sử dụng thêm lý thuyết hành vi dự định để chỉ ra được mối quan hệ giữa thái độ của nhà đầu tư về tính hấp dẫn điểm đến đối với ý định đầu tư, mà các nghiên cứu trước hầu hết chưa đề cập cho lĩnh vực này.

Hai là, tác giả đã phát hiện ra được nhân tố mới có ảnh hưởng đến tính hấp dẫn của điểm đến trong việc thu hút vốn đầu tư vào lĩnh vực du lịch đó là nhân tố “Môi trường đầu tư”. Nhân tố này được hoàn thiện và bổ sung đầy đủ hơn cho các nghiên cứu trước đây dựa trên chỉ số PCI. Tác giả đã bổ sung thêm 4 biến đo lường cho nhân tố “môi trường đầu tư” mà các nghiên cứu trước đây chưa đề cập hoặc chỉ mới dừng lại ở nghiên cứu định tính đó là: (1) chính quyền, tòa án địa phương giải quyết tranh chấp và xử lý khiếu nại nhanh chóng và công bằng; (2) chính quyền địa phương năng động và linh hoạt trong các hoạt động pháp lý, thủ tục hành chính... nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh nhất có thể; (3) Chi phí thời gian để thực hiện các quy định nhà nước ngắn ngày (thủ tục hành chính, thanh kiểm tra...); (4) Chi phí gia nhập thị trường thấp.

Ba là, trong các nghiên cứu trước đó, hầu hết các tác giả nghiên cứu chưa đầy đủ về “nhân tố tài nguyên du lịch”. Theo đó, ảnh hưởng của nhân tố này chủ yếu được nghiên cứu từ góc độ “tài nguyên du lịch tự nhiên” mà không tính đến ảnh hưởng của “tài nguyên du lịch văn hóa”. Vì vậy, kết quả nghiên cứu của luận án đã bổ sung, phân tích ảnh hưởng của tài nguyên du lịch văn hóa trong nhóm nhân tố “tài nguyên du lịch” vì “tài nguyên du lịch” gồm có: “tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên du lịch văn hóa”. Trên cơ sở này tác giả đã bổ sung và hoàn thiện hơn các biến đo lường cho nhân tố “tài nguyên du lịch”. Có 2 biến đo lường được bổ sung thêm cho nhân tố này

Xem tất cả 178 trang.

Ngày đăng: 05/03/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí