Hình Phạt Không Tước Tự Do Theo Quy Định Của Blhs Năm

phạt cũng có thể được quy định bằng một số lần trị giá hàng phạm pháp hay thu lợi bất chính. Chẳng hạn Điều 8 Sắc lệnh số 200-SL ngày 15-10-1946 quy định việc buôn bán vàng bạc cho phép ”phạt tiền bằng từ 10% đến ba lần trị giá tang vật.” Điều 3 Sắc lệnh 61-SL ngày 5-7-1947 về cấm xuất cảng tư bản cũng quy định: ”Ai phạm vào Sắc lệnh này sẽ bị phạt :

1. Tiền gấp ba số tư bản định xuất cảng hay nhập nội.

2. Tù từ 1 tháng đến 2 năm, hoặc một trong hai thứ hình phạt ấy.”

Đặc biệt, tại Thông tư số 2140 TT-VHH/HS ngày 6-12-1955 của Bộ Tư Pháp về việc áp dụng luật lệ có quy định không đổi hình phạt tù ra hình phạt tiền và Nghị định số 32-NĐ ngày 6-4-1952 của Bộ Tư Pháp đã ấn định tiền phạt bằng giá gạo. Điều 7 của Nghị định quy định: ”Riêng về tội đánh bạc, tiền phạt ấn định ở Điều 2 Sắc lệnh số 168-SL ngày 14-4-1948 bằng giá 200 đến 1.000kg gạo đối với người tổ chức và bằng giá 100 đến 500kg gạo đối với các con bạc.

Về việc bảo vệ công trình thuỷ nông, tiền phạt tối đa ấn định ở Điều 8 Sắc lệnh số 68-SL ngày 18-6-1949 bằng giá 1.00kg gạo”.

Tiếp đó Thông tư 113-VHH ngày 6-4-1952 của Bộ Tư Pháp đã quy định cụ thể thêm: ”Mức tối đa và mức tối thiểu tiền phạt tuy lấy gạo làm tiêu chuẩn, nhưng khi Toà án tuyên phạt, tiền phạt phải tính ra tiền và đơn vị vẫn là đồng bạc tài chính.”

Ngày 30-4-1975, Miền Nam hoàn toàn giải phóng. Sau khi thống nhất đất nước, theo hướng dẫn của Hội đồng Chính phủ thì những văn bản pháp luật hiện hành ở hai miền đều được áp dụng trong cả nước. Những văn bản pháp luật hình sự trước đây đã ban hành ở miền Bắc vẫn tiếp tục áp dụng. ở miền Nam, về hình sự, Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam đã ban hành một văn bản pháp luật quy định tương đối đầy đủ về

tội phạm và hình phạt, đó là Sắc luật 03-SL/76 ngày 15-3-1976. Sắc luật có quy định 7 nhóm tội khác nhau, trong đó có hai nhóm tội là nhóm tội phạm kinh tế và nhóm tội xâm phạm trật tự công cộng, an toàn công cộng và sức khoẻ của công dân, có quy định hình phạt tiền áp dụng cùng với hình phạt tù. Chẳng hạn Điều 6 của Sắc luật (về tội kinh tế) có quy định: ”....Phạm một trong các tội trên đây, thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm và phạt tiền đến 50.000đ ngân hàng hoặc một trong hai hình phạt đó....”. Như vậy, theo quy định này thì phạt tiền vừa có thể được áp dụng là hình phạt chính vừa có thể áp dụng là hình phạt bổ sung. Rõ ràng, các văn bản pháp luật hình sự trong giai đoạn này cũng chưa có sự tách biệt phạt tiền là hình phạt chính và phạt tiền là hình phạt bổ sung.

Sau khi Hiến pháp 1980 ra đời, Hội đồng Nhà nước ban hành một số Pháp lệnh như Pháp lệnh ngày 20-5-1981 trừng trị tội hối lộ, Pháp lệnh ngày 30-6-1982 trừng trị các tội đầu cơ buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép.... cũng có những quy định về hình phạt tiền.

-Hình phạt cải tạo không giam giữ:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.


Trong giai đoạn này hình phạt không tước tự do “cải tạo không giam giữ” bắt đầu xuất hiện ở một số văn bản pháp luật hình sự. Điều 69 Luật nghĩa vụ quân sự được Quốc hội thông qua ngày 30-12-1981, quy định: ”Người nào đang ở lứa tuổi làm nghĩa vụ quân sự mà không chấp hành đúng những quy định ..... thì tuỳ theo mức độ nặng nhẹ mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính, bị phạt cải tạo không giam giữ từ 3 tháng đến 2 năm...”. Khoản 1 Điều 6 Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 30-6-1982 có quy định "Người nào kinh doanh không có giấy phép hoặc không đúng với nội dung được phép.....thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 3 tháng đến 2 năm...".

Các hình phạt không tước tự do trong luật hình sự Việt Nam - 5

-Hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định:

Hình phạt cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định bước đầu được quy định tại Nghị định số 298-TTg ngày 18/8/1953 của Chính phủ để hướng dẫn thi hành sắc luật số 175-SL ngày 18/8/1953 về quản chế. Điều 2 Nghị định này quy định, kèm theo hình phạt chính là quản chế, Toà án phải áp dụng đối với người phạm tội hình phạt phụ cấm làm một số nghề nhất định như: chụp ảnh, khắc dấu, mở nhà in; làm, bán hoặc chữa vũ khí, thuốc nổ, những đồ dùng về điện khí, vô tuyến điện; mở hàng cơm, quán trọ, hàng cà phê, rạp hát, làm nghề cắt tóc; chế tạo, buôn bán các thức thuốc chữa bệnh, làm nghề thầy thuốc, thầy lang; dạy học, mở hiệu sách.

Luật đi đường bộ ngày 13/12/1955 quy định hình phạt thu hồi giấy phép chạy xe, giấy phép kinh doanh trong một thời gian hoặc vĩnh viễn đối với trường hợp vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn. Theo bản sơ kết kinh nghiệm số 949-NCLP ngày 25/11/1968 của Toà án nhân dân tối cao (TANDTC) về đường lối xét xử tội vi phạm luật lệ giao thông gây tai nạn trong tình hình mới thì thu hồi bằng lái, hình thức xử lý này có tính chất vừa là một biện pháp hành chính vừa là một hình phạt phụ (bổ sung) về hình sự.

Hình phạt cấm đảm nhiệm chức vụ ra đời muộn hơn các hình phạt nêu trên. Theo Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 thì trong nội dung của quy định về tước những quyền lợi của công dân có tước: “Quyền đảm nhiệm cương vị phụ trách trong các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội”.

Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân được UBTV Quốc hội ban hành ngày 21/10/1970 cũng có quy định hình phạt phụ cấm đảm nhiệm những chức vụ có liên quan trực tiếp đến tài sản XHCN từ 2 đến 5 năm.

-Hình phạt tước một số quyền công dân:


Văn bản pháp luật đầu tiên của Nhà nước ta quy định hình phạt này là Sắc lệnh số 106/SL ngày 05/6/1950 về tội trốn tránh nghĩa vụ tòng quân. Điều 2 của Sắc lệnh quy định những người bị kết án phạt tù có thể bị tước tất cả quyền công dân. Sau đó hình phạt này với tên gọi “mất quyền công dân” được quy định trong các Sắc lệnh số 133 ngày 20/01/1953 về trừng trị tội phản cách mạng; Sắc lệnh số 149-SL, Sắc lệnh số 150-SL và Sắc lệnh số 151-SL ngày 12/4/1953 về chính sách ruộng đất. các Sắc lệnh trên được quy định chi tiết bởi Nghị định số 264-TTg ngày 01/5/1953 của Chính phủ. Điều 5 của Nghị định đã quy định rõ “đối với những hành động phạm pháp của địa chủ, việt gian, cường hào gian ác chống pháp luật trong khi và ở những nơi phát động quần chúng tham gia cải cách ruộng đất nếu bị kết án phạt tù hoặc quản chế thì trong thời gian đó cũng bị mất quyền công dân, nếu bị phạt tù từ 10 năm trở lên thì bị mất quyền công dân suốt đời, nếu bị phạt tù dưới 10 năm thì sau khi mãn hạn tù sẽ mất quyền công dân trong thời gian bằng thời gian tù”. Sắc luật số 175-SL ngày 18/8/1953 về quản chế cũng có quy định tại điều 6 “Kẻ bị quản chế bị mất quyền công dân trong thời gian quản chế”.

Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng do UBTV Quốc hội ban hành ngày 30/10/1967 có quy định hình phạt tước những quyền lợi của công dân là một loại hình phạt phụ. Hình phạt tước những quyền lợi của công dân đã có sự hoàn thiện đáng kể về nội dung và thời hạn áp dụng. Pháp lệnh này quy định rõ những người bị kết án bị tước từ 2 đến 5 năm những quyền lợi của công dân như sau: quyền bầu cử và ứng cử; quyền làm việc trong biên chế Nhà nước và trong các tổ chức của lực lượng vũ trang nhân dân; quyền đảm nhiệm cương vị phụ trách trong các tổ chức chính trị, kinh tế, văn hoá và xã hội.

Thông tư số 184/NCLP ngày 15/02/1975 về việc tước quyền bầu cử, ứng cử, TANDTC hướng dẫn là tất cả những người phạm các tội phản cách mạng, không kể là phạt tù giam hoặc tù án treo, đều phải chịu thêm hình phạt phụ là tước một số quyền lợi của công dân (trong đó có quyền bầu cử và ứng cử) từ 2 năm đến 5 năm mà Toà án phải tuyên rõ trong bản án.

Hình phạt tước quyền công dân trong các văn bản PLHS thời kỳ này có các đặc điểm như sau: 1) Tên gọi không thống nhất như: tước quyền công dân, mất quyền công dân…; 2) Được quy định áp dụng đối với từng loại tội phạm cụ thể nhưng nội dung không rõ ràng (không quy định rõ là tước hay mất quyền công dân nào).

-Hình phạt Tịch thu tài sản:


Ngay tại Điều 4 Sắc luật số 33C-SL ngày 13/9/1945 đã có quy định về hình phạt tịch thu tài sản “án từ có thể tuyên: 1- Tha bổng. 2- Tịch thu một phần hay tất cả tài sản. 3- Phạt tù từ một năm đến mười năm. 4- Xử tử”. Sắc luật số 223-SL ngày 27/11/1946 về trừng trị tội nhận hối lộ cũng quy định tại điề u t hứ nhất : … Người phạm tội còn có thể bị xử tịch thu nhiều nhất là đến ba phần tư gia sản. Các đồng phạm và tòng phạm cũng bị phạt như trên”. "Người phạm tội hối lộ nói ở Điều 5 và Điều 6 có thể bị phạt tiền đến 5 lần giá trị của hối lộ hoặc bị tịch thu một phần hay là toàn bộ tài sản của mình".

Pháp lệnh trừng trị các tội phản cách mạng do UBTV Quốc hội ban hành ngày 30/10/1967, Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản XHCN và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân được UBTV Quốc hội ban hành ngày 21/10/1970, Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ ngày 20/5/1981, Pháp lệnh trừng trị các tội đầu cơ, buôn lậu, làm hàng giả, kinh doanh trái phép ngày 30-6-1982 đều có những quy định về hình phạt tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản là các hình phạt bổ sung.

Tóm lại, qua nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự từ năm 1945 đến trước khi có BLHS năm 1985 cho chúng ta được thấy đã có sự xuất hiện đầy đủ các hình phạt không tước tự do, đó là các hình phạt: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Tước một số quyền công dân; Tịch thu tài sản.

Từ những phân tích trên có thể rút ra một số nhận xét về hình phạt không tước tự do trong pháp luật hình sự Việt Nam trước khi ban hành Bộ luật hình sự năm 1985 như sau:

Các hình phạt không tước tự do chưa được quy định rõ ràng, thiếu nội dung và điều kiện áp dụng, chưa phân biệt rõ ranh giới giữa biện pháp hành chính và hình phạt, giữa hình phạt chính và hình phạt bổ sung.

Do chưa có hệ thống hình phạt hoàn chỉnh, các hình phạt không tước tự do được quy định trong nhiều văn bản pháp luật hình sự khác nhau, nên không thể sắp xếp chúng vào một trật tự nhất định để thấy rõ thứ bậc về tính nghiêm khắc giữa các hình phạt.

Các hình phạt không tước tự do xuất hiện trong thời gian này cho thấy pháp luật hình sự Việt Nam đã có sự đa dạng hoá các loại hình phạt ngay từ khi chưa ban hành một bộ luật thống nhất quy định về tội phạm và hình phạt.

Các loại hình phạt được quy định trong nhiều văn bản khác nhau thể hiện tính chất linh hoạt, kịp thời để thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước, phục vụ sự nghiệp cách mạng, đóng góp một phần quan trọng vào công cuộc kháng chiến kiến quốc.

1.3.2. Hình phạt không tước tự do theo quy định của BLHS năm

1985


Bộ luật hình sự năm 1985 (BLHS) đã được Quốc hội nước Cộng hoà xã

hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 27-6-1985 và có hiệu lực kể từ ngày

01-01-1986. BLHS năm 1985 thể hiện tập trung chính sách hình sự của Đảng và nhà nước, quy định một cách thống nhất, tổng thể và có hệ thống trong cùng một văn bản những vấn đề về tội phạm và hình phạt. Từ khi BLHS năm 1985 ra đời cho đến khi có BLHS năm 1999 thay thế, Nhà nước ta đã 4 lần ban hành luật sửa đổi, bổ sung một số điều của BLHS vào các năm 1989, 1990, 1992 và 1997.

Hệ thống các loại hình phạt được quy định tại Điều 21 BLHS năm 1985 bao gồm các hình phạt chính và các hình phạt bổ sung. Trong hệ thống hình phạt đó, các hình phạt không tước tự do bao gồm: Cảnh cáo; Phạt tiền; Cải tạo không giam giữ; Cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; Tước một số quyền công dân; Tước danh hiệu quân nhân; Tịch thu tài sản.

-Cảnh cáo:


Cảnh cáo là một trong những hình phạt không tước tự do được quy định trong BLHS năm 1985. Theo Điều 22 của Bộ luật này: ”Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt.”

Hình phạt cảnh cáo được quy định ở 40 điều luật trong BLHS năm 1985, cụ thể là các điều 89, 107, 109 đến 111, 116, 117, 119 đến 127, 136,

140, 143 đến 145, 147, 159, 161, 171, 179, 188, 194, 198, 200, 205a, 209,

210, 212, 215, 216, 223, 241, 242 247.


-Phạt tiền:


Hình phạt tiền quy định trong BLHS năm 1985 được áp dụng đối với người phạm các tội có tính chất vụ lợi, tham nhũng, các tội có dùng tiền làm phương tiện hoạt động hoặc những trường hợp khác do luật quy định.

Phạt tiền là hình phạt không tước tự do nhưng cũng có thể được áp dụng với tính cách là hình phạt bổ sung khi không áp dụng là hình phạt chính.

Điều 23 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về hình phạt tiền như sau:

”Phạt tiền được áp dụng đối với người phạm các tội có tính chất vụ lợi, tham nhũng, các tội có dùng tiền làm phương tiện hoạt động hoặc những trường hợp khác do luật định.

Mức phạt tiền được quyết định theo mức độ nghiêm trọng của tội đã phạm, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự biến động của giá cả.”

Trong BLHS năm 1985 có quy định phạt tiền là hình phạt chính và là hình phạt bổ sung tại một số tội, cụ thể như sau:

- Phạt tiền là hình phạt chính quy định tại điều 9 điều luật là các Điều 90, 91, 126, 179, 185g, 185h, 185k, 185n, 215

- Phạt tiền là hình phạt bổ sung quy định tại 58 điều luật, là các Điều 88, 90, 91, 95, 96, 97, 98, 99, 129, 130, 131, 132, 133, 134, 135, 137, 138,

141, 164, 165, 166, 167, 168, 169, 171, 172, 173, 177, 178, 179, 180, 181,

182, 183, 184, 185a, 185b, 185c, 185d, 185e, 185g, 185h, 185i, 185k, 185n,

185m, 199, 200, 201, 202, 221, 221a, 224, 226, 227, 228, 228a.


- Cải tạo không giam giữ:

Cải tạo không giam giữ là một trong các loại hình phạt chính được quy định tại Điều 24 Bộ luật hình sự năm 1985 như sau:

“Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến hai năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/11/2023