Một Số Giải Pháp Cụ Thể Nhằm Giảm Và Tiến Tới Xoá Bỏ Hình Phạt Tử Hình Trong Luật Hình Sự Việt Nam

hướng nhiệm vụ cải cách tư pháp) [74]. Đặc biệt tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013, một bản Hiến pháp được tiến hành lấy ý kiến rộng rãi toàn thể nhân dân trong cả nước và được quốc hội thông qua ngày 28/11/2013, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2014 cũng đã quy định rất rõ tại Điều 19 đó là: "Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người

được pháp luật bảo hộ. Không ai bi ̣tướ c đoat

tính mạng trái luật" . Đây chính

là nguyên tắc hiến định rất quan trọng về quyền con người, Chính vì vậy việc sửa đổi pháp luật nói chung, chính sách pháp luật hình sự nói riêng trong đó có các quy định nhằm hạn chế để tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam là rất cần thiết để phù hợp với nguyên tắc này.

3.2. Một số giải pháp cụ thể nhằm giảm và tiến tới xoá bỏ hình phạt tử hình trong luật hình sự Việt Nam

Xu hướng chung của thế giới hiện nay là giảm dần, tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình, trong khi đó đất nước ta đang trong giai đoạn hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng để phát triển kinh tế xã hội, cho nên chúng ta cũng không thể nằm ngoài xu thế đó. Nhận thức được vấn đề này, Đảng và nhà nước ta đã căn cứ vào tình hình thực tiễn trong xu thế phát triển của thời đại, xu thế phát triển của đất nước, do đó đã đưa ra những chủ trương đường lối mang tính định hướng nêu trên để nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự theo hướng hạn chế áp dụng hình phạt tử hình. Vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu và phân tích một số vấn đề được đề cập ở các phần trên, tác giả mạnh dạn đưa ra một số các giải pháp nhằm hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự theo hướng giảm để tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam như sau:

3.2.1. Giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự.

Bộ luật hình sự là một Bộ luật hết sức quan trọng, nó liên quan đến nhiều vấn đề, trong đó có cả quyền sống của con người. Chính vì vậy, do xuất phát từ những tồn tại bất cập ở trên cho nên trong lần sửa đổi, bổ sung tới sẽ theo

hướng phân tích tại các phần trong luận văn đã đề cập thì cần phải được tiến hành một cách đồng bộ, tổng thể và khoa học bao gồm cả phần chung và phần các tội phạm. Tránh xu hướng chỉ sửa đổi, bổ sung nhỏ mang tính chắp vá, chưa nhìn thẳng vào thực tiễn khách quan từ các nước phát triển trên thế giới, hoặc bố cục tùy tiện gây khó khăn cho việc trích dẫn điều luật thiếu tính đồng nhất. Chẳng hạn để hạn chế hình phạt tử hình thì không những chỉ sửa đổi điều luật quy định về hình phạt tử hình, mà cần phải sửa đổi theo hướng giảm các điều luật quy định về hình phạt tử hình, thay vào đó là các biện pháp tương xứng, biện pháp thi hành phù hợp tạo hướng mở mang tính nhân đạo cho người bị kết án; hoặc sửa đổi về câu từ bố cục mang tính chặt chẽ, khoa học, tránh sắp xếp trong cùng một Bộ luật nhưng điều này thì quy định khoản nhưng điều kia lại quy định đoạn… Do vậy tác giả xin được đề xuất cụ thể như sau:

3.2.1.1. Tại Phần chung của BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

1) Hoàn thiện quy định Mục đích của hình phạt (Điều 27 BLHS năm 1999) và (Điều 31 BLHS năm 2015).

Tại điều 27(Điều 31 BLHS năm 2015) tác giả tán thành với đề xuất của GS.TSKH. Lê Văn Cảm về hướng sửa đổi bổ sung thêm thuật ngữ “Nội dung và các” vào trước tên gọi của Điều 27 (điều 31 BLHS năm 2015) thành: “Nội dung và các mục đích của hình phạt”, đồng thời biên soạn lại điều luật này theo hướng bổ sung thêm một khoản mới về về mục đích của hình phạt là: “3. Việc áp dụng hình phạt không được nhằm mục đích gây đau đớn về thể xác hoặc hạ thấp nhân phẩm con người”. Việc sửa đổi bổ sung như vậy vừa đảm bảo tính chặt chẽ, vừa thể hiện tính khoan dung nhân đạo của chính sách pháp luật hình sự của nhà nước ta mà vẫn đảm bảo tính ngăn chặn hành vi phạm tội [87, tr. 213].

Một số vấn đề cơ bản để giảm và tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình trong Luật hình sự Việt Nam - 13

2) Hoàn thiện quy định hình phạt tử hình tại Điều 35 BLHS 1999

Tại điều 35 nên sửa đổi, bổ sung theo hướng:

a) Tác giả tán thành với dự thảo sửa đổi bổ sung BLHS mới tại (Điều

40 BLHS năm 2015) và quan điểm của GS.TSKH. Lê Văn Cảm đó là: chuyển các “đoạn” thành các “khoản” [87, tr. 213], để cho bố cục điều luật khoa học hơn, tránh tình trạng bố cục điều luật phi khoa học và không thể chấp nhận được về mặt kỹ thuật lập pháp như hiện nay đó là trong cùng một Bộ luật nhưng điều này thì quy định khoản nhưng điều kia lại quy định đoạn.

b) Từ những phân tích, đánh giá những bất cập trên, theo quan điểm của tác giả cần hoàn thiện quy định tại đoạn 1 Điều 35 BLHS năm 1999 như sau: “Tử hình là hình phạt đặc biệt tước đi quyền sống của người bị kết án, chỉ được áp dụng đối với người phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, trong trường hợp đặc biệt nghiêm trọng”.

c) tại đoạn 2 của điều 35 BLHS có quy định: “Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người chưa thành niên phạm tội, đối với phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử” [64, Điều 35], đây là quy định đã có hướng thu hẹp đối tượng áp dụng hình phạt tử hình so với các quy định trước đây. Tuy nhiên, xu thế chung của thế giới và trên cơ sở định hướng của Đảng và nhà nước ta là “hạn chế áp dụng hình phạt tử hình” cho nên cần sửa đổi bổ sung để hoàn thiện theo hướng mở rộng, bổ sung thêm một số đối tượng phạm tội không bị áp dụng hình phạt tử hình. Vì vậy, theo quan điểm của tác giả thì những đối tượng phạm tội sau đây sẽ không bị áp dụng hình phạt tử hình đó là:

Thứ nhất: Tác giả tán thành với dự thảo BLHS năm 2015 được thông qua ngày 27/11/2015 đó là tại khoản 2 Điều 40 “Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội” [66, Điều 40]. Bởi lẽ, tại điều 46 cũng đã quy định người già là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, thì người từ đủ 70 tuổi trở lên. Ở độ tuổi này, sức khỏe con người giảm sút, khả năng tư duy không còn nhạy bén và minh

mẫn; khả năng gây thiệt hại cho xã hội hạn chế; họ đã có một quá trình lao động, đóng góp cho xã hội, xứng đáng được nghỉ ngơi… Việc phụng dưỡng, chăm sóc người già không chỉ là đạo lý mà còn là “trách nhiệm của gia đình, Nhà nước và của xã hội” (Điều 1 Luật người cao tuổi). Trong những năm qua ở Việt Nam chúng ta tuy chưa có thống kê chính thức số lượng người gia bị áp dụng và thi hành hình phạt tử hình, nhưng với đặc điểm tâm- sinh lý nêu trên cũng như trong thực tiễn chúng tôi nhận thấy đại đa số những người già là những người mẫu mực cho nên tỷ lệ người già phạm tội đặc biệt nghiêm trọng không nhiều nên số người già bị kết án tử hình (nếu có) không đáng kể, thậm chí không có.

Mặt khác qua nghiên cứu Luật hình sự Việt Nam thời kỳ phong kiến cũng đã quy định không áp dụng hình phạt tử hình đối với người già. Chẳng hạn như Bộ luật Hồng Đức đã thể hiện chính sách nhân đạo đối với người già phạm tội. Cụ thể tại Điều 16 Bộ luật này có quy định:

Những người già từ 70 tuổi trở lên phạm tội lưu trở xuống đều cho chuộc bằng tiền; phạm tội thập ác thì không theo luật này. Từ 80 tuổi trở lên, phạm tội phản nghịch, giết người đáng phải tội chết thì cũng phải tâu để vua xét định. Từ 90 tuổi trở lên, dầu có bị tội chết cũng không hành hình. Điều 17 Bộ luật này quy định: khi phạm tội chưa già cả, đến khi già cả mới bị phát giác, thì xử tội theo luật già cả [72, tr. 153].

Vì vậy, việc không áp dụng hình phạt tử hình đối với người già theo như phân tích đề cập ở trên chính là sự kế thừa truyền thống lập pháp, đạo lý của dân tộc ta, phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển của pháp luật hình sự trên thế giới, phù hợp với Luật người cao tuổi và thể hiện chính sách hình sự nhân đạo, khoan dung của Đảng và Nhà nước đã chỉ ra tại Nghị quyết 49 “hạn chế áp dụng hình phạt tử hình và Hiến pháp năm 2013 quy định “quyền được sống tại điều 19”.

Thứ hai: Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người thiểu năng tâm thần. Bởi lẽ,theo quy định hiện hành trong Bộ luật hình sự, người thiểu năng tâm thần, nếu không rơi vào tình trạng không có năng lực trách nhiệm hình sự thì họ vẫn phải chịu trách nhiệm hình sự. Điều 35 BLHS, khi quy định về các đối tượng “không áp dụng hình phạt tử hình” không có người thiểu năng tâm thần. Do vậy về nguyên tắc, những người này vẫn có thể phải chịu mức án tử hình và tình trạng thiểu năng tâm thần chỉ được coi là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định tại khoản 1 điều 46 BLHS.

Thực tế quy định trên còn chưa phù hợp, bởi lẽ: những người thiểu năng trí tuệ thường hoạt động theo cảm tính vô thức, không có chủ ý mục đích và hầu như họ không còn khả năng nhận thức hoặc nếu còn khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình thì cũng chỉ ở mức độ hạn chế đó là: với người thiểu năng trí tuệ có chỉ số thông minh IQ từ 59 đến dưới 70, thì mức độ nhận thức của họ chỉ tương đương đứa trẻ từ 7 đến 10 tuổi; với người có chỉ số thông minh IQ là 76, mức độ nhận thức của họ chỉ tương đương với người 13 tuổi 6 tháng. Trong khi đó, theo quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam thì người từ đủ 14 tuổi trở lên mới có thể phải chịu trách nhiệm hình sự, người chưa đủ 14 tuổi được coi là chưa có khả năng nhận thức và điều khiển hành vi của mình nên không đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự. Chúng ta thấy không công bằng khi hai người có khả năng nhận thức tương đương nhau, nhưng chỉ khác về độ tuổi (tức một người chưa đủ 14 tuổi) không phạm tội; còn một người (đủ 18 tuổi trở lên) nhưng nhận thức chỉ tương đương với người chưa đủ 14 tuổi vẫn bị coi là phạm tội và có thể phải chịu mức án tử hình [72, tr. 155, 157].

Qua nghiên cứu luật cổ Việt Nam, tại điều 16 Bộ luật Hồng Đức cũng đã quy định: “người bị ác tật phạm tội phản nghịch, giết người đáng phải tội chết thì cũng phải tâu vua để xét định, ăn trộm và đánh người bị thương thì cho chuộc, còn ngoài ra thì không bắt tội” [50].

Còn trên thế giới hiện nay, một số quốc gia cũng đã quy định không áp dụng hình đối với người thiểu năng trí tuệ như: SriLanka, Thái Lan, Ai Cập, Thổ Nhĩ kỳ, Ukraine, Hoa Kỳ. Việc không áp dụng hình phạt tử hình đối với những người thiểu năng trí tuệ là hoàn toàn phù hợp với tuyên bố nhân quyền về người tàn tật và tâm thần được Đại hội đồng liên hiệp quốc thông qua năm 1971.

Thứ ba: Không áp dụng hình phạt tử hình đối với người tàn tật về thể chất mà không phải do chính họ gây ra để trốn tránh trách nhiệm hình sự.

Đây là những đối tượng thường mặc cảm tự ti, thua thiệt trong cuộc sống cho nên tâm lý thường không được ổn định, thiếu vững vàng, khả năng tiếp tục tái thực hiện hành vi đặc biệt nguy hiểm cho xã hội không cao. Mặt khác cũng do xuất phát từ tình trạng “tàn tật” cho nên phần nào ảnh hưởng đến rất nhiều khả năng nhận thức và khả năng điều khiển hành vi của họ. Trong khi đó với đạo lý nhân đạo của dân tộc ta thì những đối tượng này thường được Nhà nước, xã hội và cộng đồng quan tâm, giúp đỡ đặc biệt.

Pháp luật từ phong kiến trước đây cũng quy định vấn đề này, cụ thể như: Bộ Luật Hồng Đức có quy định về trách nhiệm hình sự của người bị tàn tật đã thể hiện đường lối khoan dung nhân đạo đó là:

Người phế tật phạm tội lưu trở xuống đều cho chuộc bằng tiền, phạm tội thập ác thì không theo luật này. Người bị ác tật phạm tội phản nghịch, giết người đáng phải tội chết thì cũng phải tâu để vua xét định, ăn chộm và đánh người bị thương thì cho chuộc, còn ngoài ra thì không bắt tội. Khi phạm tội chưa tàn tật, đến khi tàn tật mới bị phát giác, thì xử theo luật tàn tật [50].

Với quy định này chính là thể hiện tính nhân đạo khoan dung mang ý nghĩa giáo dục cao, có sự cảm thông sâu sắc của toàn xã hội.

Dưới góc độ nghiên cứu đề tài tôi nhận thấy: người tàn tật về thể chất, chính là họ đang bị hạn chế về đặc điểm sinh học của cơ thể cho nên việc tiếp

tục thực hiện hành vi phạm tội đặc biệt nguy hiểm cho xã hội không cao. Do vậy chúng ta chỉ cần áp dụng biện pháp cách ly đối với những người này ra khỏi cuộc sống xã hội và có sự giám sát chặt chẽ là đảm bảo được mục đích ngăn ngừa, giáo dục, cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội và giáo dục được người khác biết để tự ý thức tôn trọng pháp luật, biết nâng niu quy trọng những phẩm giá cao quý trong cuộc sống, không mắc sai phạm trong cuộc sống.

Từ những phân tích trên tác giả đề xuất sửa đổi bổ sung đoạn 2 Điều 35 BLHS năm 1999 như sau:

2. Không áp dụng hình phạt tử hình đối với:

a) Người dưới 18 tuổi khi phạm tội hoặc khi xét xử.

b) Người phạm tội là phụ nữ có thai hoặc phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.

c) Người từ đủ 75 tuổi trở lên khi phạm tội hoặc khi bị xét xử.

d) Người thiểu năng tâm thần khi phạm tội;

đ) Người tàn tật về thể chất mà không phải do chính họ gây ra để trốn tránh trách nhiệm hình sự;

Trong những trường hợp này hình phạt tử hình chuyển thành tù chung thân.

3.2.1.2. Tại Phần các tội phạm của BLHS năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009

Đối với phần các tội phạm cần được hoàn thiện theo hướng giảm bớt một số điều có cấu thành quy định khung hình phạt tử hình để chuyển sang tù chung thân bao gồm: 1) khoản 1 Điều 83 (Tội hoạt động phỉ); 2) khoản 1 Điều 85 (Tội phá hoại cơ sở vật chất - kỹ thuật của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam); 3 & 4) khoản 3-4 Điều 112 (Tội hiếp dâm trẻ em); 5) khoản 4 Điều 133 (Tội cướp tài sản); 6) khoản 4 Điều 157 (Tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh); 7) khoản 4 Điều 194 (Tội tàng trữ, vận chuyển, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt chất ma túy);

8) khoản 2 Điều 231 (Tội phá hủy công trình, phương tiện quan trọng về an ninh quốc gia); 9) khoản 4 Điều 278 (Tội tham ô tài sản); 10) khoản 4 Điều 279 (Tội nhận hối lộ); 11) khoản 4 Điều 316 (Tội chống mệnh lệnh); 12) khoản 3 Điều 322 (Tội đầu hàng địch); 13) Điều 343 (Tội phạm chiến tranh). Tức là theo hướng giảm này thì chỉ còn 10 Điều có quy định hình phạt tử hình bao gồm: 1) khoản 1 Điều 108 (Tội phản bội Tổ quốc); 2) khoản 1 Điều 109 (Tội hoạt động nhằm lật đổ chính quyền nhân dân); 3) khoản 1 Điều 110 (Tội gián điệp); 4) khoản 1 Điều 112 (Tội bạo loạn); 5) khoản 1 Điều 113 (Tội khủng bố nhằm chống chính quyền nhân dân); 6) khoản 1 Điều 123 (Tội giết người); 7) khoản 4 Điều 248 (Tội sản xuất trái phép chất ma túy); 8) khoản 1 Điều 299 (Tội khủng bố); 9) khoản 1 Điều 421 (Tội phá hoại hòa bình, gây chiến tranh xâm lược); 10) khoản 1 Điều 423 (Tội phạm chiến tranh).

Riêng đối với các tội phạm có tính chất kinh tế (như tội tham ô và nhận hối lộ) về bản chất khi thực hiện những tội phạm này về thực chất người phạm tội hướng tới mục đích thu được lợi ích về kinh tế bằng những thủ đoạn phạm tội khác nhau, trong đó có cả các thủ đoạn được qui định ở Tội tham ô, Tội nhận hối lộ thuộc nhóm tội phạm tham nhũng. Do đó trong giai đoạn hiện nay Đảng và nhà nước ta đang coi tội tham nhũng như một quốc nạn. Tuy nhiên trong xu thế giảm dần, tiến tới xóa bỏ hình phạt tử hình, nhưng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau vừa đảm bảo tính dung hòa, vừa tạo cơ hội cho người phạm tội ăn năn hối cải khắc phục hậu quả chúng ta vừa ngăn chặn được việc phạm tội vừa thu hồi được tài sản cho nhà nước thì nếu chúng ta không bỏ hẳn được thì Tác giả cũng tán thành với quan điểm đề Xuất của ThS. Vũ Thị Thúy đó là: áp dụng theo hướng quy định “án tử hình treo”. Đây là biện pháp miễn chấp hành hình phạt tử hình có điều kiện. Thực tế quy định này đã có nước áp dụng, Chẳng hạn như Bộ luật hình sự 1997 của Trung Quốc đã quy định đó là:

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 19/05/2022