Các hành vi pháp lý vô hiệu theo pháp luật phá sản ở Việt Nam - 2

Chương 1

TỔNG QUÁT VỀ HÀNH VI PHÁP LÝ VÔ HIỆU TRONG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ PHÁ SẢN


1.1. Sự cần thiết quy định các hành vi pháp lý vô hiệu trong pháp luật về phá sản

1.1.1. Khái luận về phá sản nhìn từ góc độ sự cần thiết phải vô hiệu hóa một số hành vi pháp lý

1.1.1.1. Khái niệm phá sản và pháp luật phá sản

Khi tham gia kinh doanh, mọi thương nhân đều có chung một mục đích là tối đa hóa lợi nhuận cho nên cạnh tranh là tất yếu, và trong quy luật cạnh tranh khốc liệt ấy thì tất có người được, kẻ mất. Quy luật thị trường cũng ẩn chứa đầy rủi ro khó lường, mặc dù mọi thương nhân đều cố gắng hạn chế thấp nhất rủi ro và thua lỗ nhưng vấn đề phá sản ắt xảy ra, đó là hiện tượng khách quan, phản ánh sự vận động và phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường. Phá sản có thể nói là một hiện tượng gắn liền với kinh tế thị trường. Nó không xuất hiện trong nền kinh tế kế hoạch hóa bởi ở đó có sự thủ tiêu cạnh tranh. PGS. TS Dương Đăng Huệ nhận định "Phá sản đã có từ lâu, nhưng với tư cách là một hiện tượng phổ biến thì nó chỉ xuất hiện trong nền kinh tế thị trường" [9, tr. 7]. Cạnh tranh là nhân tố gần như duy nhất sản sinh ra hiện tượng phá sản. Nó loại bỏ những doanh nghiệp làm ăn yếu kém ra khỏi đời sống kinh doanh. Một mặt phá sản gây xáo trộn nhất định cho những người có liên quan (như các chủ nợ, bản thân con nợ, người lao động, khách hàng…). Nhưng mặt khác phá sản giúp ""cơ cấu lại" nền kinh tế, góp phần duy trì sự tồn tại của những doanh nghiệp đủ sức đứng vững trong điều kiện cạnh tranh" [29, tr. 333]. Có thể nói phá sản vừa có mặt tích cực, lại vừa có mặt tiêu cực.

Ở mặt có lợi của phá sản, người ta thiết lập các qui định tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở thủ tục phá sản. Nhưng ở mặt bất lợi của phá sản, người ta phải thiết lập các qui định để loại bỏ hay hạn chế sự ảnh hưởng của phá sản đến những người khác và cộng đồng. Chính vì vậy, để cải thiện môi trường kinh doanh lành mạnh, nhà nước cần thiết ban hành quy chế pháp lý đặc biệt nhằm can thiệp, kiểm soát và điều chỉnh các quan hệ phát sinh khi con nợ lâm vào tình trạng phá sản nhằm tạo ra hành lang an toàn, thuận lợi, có hiệu lực thực tế, thực sự là công cụ hữu hiệu để giải quyết mối quan hệ nợ nần đặc biệt giữa chủ nợ và con nợ, đồng thời để đảm bảo sự công bằng của các chủ nợ, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người lao động và các chủ thể khác có liên quan cũng như của chính con nợ và những hệ quả pháp lý của nó. Vô hiệu hóa các hành vi pháp lý mà doanh nghiệp bị phá sản tham gia là một điển hình của sự cố gắng của pháp luật đối với việc loại bỏ hay hạn chế tác động xấu của doanh nghiệp bị phá sản đến những người khác.

Theo cách nói thông thường, phá sản là tình trạng của một người bị vỡ nợ không còn bất cứ tài sản nào để trả các khoản nợ đến hạn. Theo Từ điển tiếng Việt, "phá sản" là "lâm vào tình trạng tài sản không còn gì và thường là vỡ nợ, do kinh doanh bị thua lỗ, thất bại" [32, tr. 762]; "vỡ nợ" là lâm vào tình trạng bị thua lỗ, thất bại liên tiếp trong kinh doanh, phải bán hết tài sản mà vẫn không đủ để trả nợ.

Thuật ngữ phá sản đã được "hình thành, bắt nguồn từ chữ "ruin" trong tiếng Latin - có nghĩa là sự khánh tận- tức là mất khả năng thanh toán" [24, tr. 4]. Như vậy, khái niệm này dùng để chỉ tình trạng mất cân đối giữa thu và chi của một doanh nghiệp. Biểu hiện trực tiếp của sự mất cân đối này là tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn (insolvency). Việc tiếp nhận hiện tượng này có sự biến đổi theo thời gian. Trước hết nó áp dụng cho sự mất khả năng trả nợ của thương nhân. Nên thông thường nó được xem là một qui chế gắn với đời sống thương mại. Thuật ngữ "phá sản" tuy đã được sử dụng rộng rãi trong ngôn ngữ hàng ngày và trong khoa học pháp lý song cho đến

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.

nay vẫn chưa được chính thức giải thích trong các văn bản pháp luật về phá sản ở nước ta. Thay vào đó, thuật ngữ "tình trạng phá sản" được sử dụng và giải thích. Theo khuynh hướng này, Điều 3, Luật Phá sản năm 2004 của Việt Nam định nghĩa: "Doanh nghiệp, hợp tác xã không có khả năng thanh toán được các khoản nợ đến hạn khi chủ nợ có yêu cầu thì coi là lâm vào tình trạng phá sản" [19].

Theo thống kê của Ngân hàng Thế giới, "tỉ lệ rủi ro của các doanh nghiệp là 1/4, có nghĩa cứ đầu tư thành lập 100 doanh nghiệp thì sẽ có khoảng 25 doanh nghiệp bị phá sản, thậm chí bị phá sản ngay từ khi mới thành lập" [29, tr. 333]. Để kiểm soát vấn đề phá sản và phát huy những tích cực của nó, đồng thời kiềm chế mặt tiêu cực của nó. Tại khoản 1, Điều 5, Luật phá sản Việt Nam qui định bốn thủ tục bao gồm:

Các hành vi pháp lý vô hiệu theo pháp luật phá sản ở Việt Nam - 2

a) Nộp đơn yêu cầu và mở thủ tục phá sản;

b) Phục hồi hoạt động kinh doanh;

c) Thanh lý tài sản, các khoản nợ;

d) Tuyên bố doanh nghiệp, hợp tác xã bị phá sản [19].

Vậy có thể nói pháp luật về phá sản là tập hợp các quy định pháp luật về trình tự, thủ tục để doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản tiến hành chấm dứt hoạt động trên thực tế, và rút khỏi thương trường một cách có trật tự. Xét ở khía cạnh khác, pháp luật về phá sản là pháp luật tổ chức việc đòi nợ tập thể của các chủ nợ đối với con nợ.

Việc đòi nợ như vậy có các đặc điểm sau:

(1) Là cách thức đòi nợ tập thể;

(2) Là cách thức chấm dứt hoạt động của con nợ hoặc giúp con nợ phục hồi.

Do vậy, về bản chất pháp luật về phá sản bao gồm tổng thể các quy định bảo đảm cho các đặc điểm trên của cách thức lấy nợ đặc biệt này.

PGS. TS Dương Đăng Huệ cho rằng "thủ tục phá sản- một thủ tục pháp lý có tính cách tổng hợp" [9, tr. 15]. Và dĩ nhiên trong đó bao gồm cả các quy định liên quan tới vô hiệu hóa một số hành vi pháp lý mà con nợ tham gia.

1.1.1.2. Các chủ thể chủ yếu của luật phá sản liên quan tới sự vô hiệu các hành vi pháp lý trong pháp luật về phá sản

Trong luật phá sản thông thường xuất hiện các chủ thể sau: Con nợ, chủ nợ, hội nghị chủ nợ, tòa án và quản tài viên. Con nợ là chủ thể của pháp luật phá sản ở Việt Nam hiện nay là doanh nghiệp hoặc hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản mà đã bị tòa án quyết định mở thủ tục phá sản. Chủ nợ là chủ thể của pháp luật phá sản là các chủ nợ của con nợ đã bị mở thủ tục phá sản và đã có tên trong danh sách chủ nợ. Hội nghị chủ nợ là một tập hợp các chủ nợ đã được lập ra theo qui định của pháp luật để tiến hành các thủ tục theo qui định của pháp luật phá sản. Quản tài viên là một thuật ngữ được sử dụng trong luật phá sản dưới các chế độ cũ. Hiện nay theo pháp luật Việt Nam thay thế định chế quản tài viên bằng một định chế khác được gọi là Tổ quản lý, thanh lý tài sản mà tổ này do tòa án ra quyết định thành lập đồng thời với việc quyết định mở thủ tục phá sản. Tổ quản lý, thanh lý tài sản phá sản có chức năng tương tự như định chế cũ nhưng mang nhiều khiếm khuyết, bởi bản thân nó không phải là một thể nhân, mà cũng không phải là pháp nhân, nhưng lại có rất nhiều quyền và nghĩa vụ.

Đối với các hình thức công ty có chế độ trách nhiệm hữu hạn (như công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn), và hợp tác xã bị tuyên bố phá sản, thì kể từ thời điểm bị tuyên bố phá sản, các thành viên của các doanh nghiệp này thoát khỏi gánh nặng nợ nần đối với các chủ nợ có liên quan dù còn nợ hay không. Nhưng đối với các loại hình công ty có chế độ trách nhiệm vô hạn (như công ty hợp danh, công ty hợp vốn đơn giản, công ty hợp vốn cổ phần) và doanh nghiệp tư nhân, thì gánh nặng nợ nần vẫn theo đuổi các thành viên của nó theo các qui chế được thiết lập bởi pháp luật phá sản của từng quốc gia. Do vậy chủ thể của luật phá sản không thể không kể tới các thành

viên chịu trách nhiệm vô hạn của các hình thức công ty nói trên và chủ doanh nghiệp tư nhân.

Các loại chủ thể này có các quyền và nghĩa vụ khác nhau do vị thế của họ tạo ra. Tuy nhiên đề tài luận văn này không đi sâu vào phân tích các loại chủ thể này mà chỉ đề cập chủ yếu tới con nợ và Tổ quản lý, thanh lý tài sản phá sản liên quan tới vấn đề vô hiệu hóa các hành vi pháp lý trong phá sản.

Từ xưa tới nay đa phần con nợ muốn tìm cách trốn tránh trách nhiệm trả nợ. Cách thức chủ yếu của việc trốn tránh trách nhiệm trả nợ là tẩu tán tài sản bằng nhiều thủ đoạn khác nhau. Trong khi đó Tổ quản lý, thanh lý tài sản phá sản có trách nhiệm luật định là thay mặt cho các chủ nợ để kiểm soát con nợ. Vì vậy con nợ lâm vào tình trạng phá sản và Tổ quản lý, thanh lý tài sản phá sản là hai chủ thể chủ yếu cần phải đề cập tới ở đây.

1.1.2. Hành vi của con nợ lâm vào tình trạng phá sản cần phải vô hiệu

Trên thực tế, không ít doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản thực hiện các hành vi nhằm mục đích tẩu tán tài sản để trốn nợ hoặc để trốn tránh trách nhiệm trả nợ đối với nhà nước, các tổ chức, cá nhân. Thậm chí có doanh nghiệp ngay từ khi thành lập, hay trước khi lâm vào tình trạng phá sản đã thực hiện các hành vi tẩu tán tài sản nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của các chủ nợ. Các hành vi này thực sự gây ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường kinh doanh nói riêng và trật tự xã hội nói chung. Việc gây ảnh hưởng trước tiên tới kinh doanh là các nhà đầu tư không thể an tâm đầu tư phát triển sản xuất. Tiếp đó là hàng loạt các ảnh hưởng xấu khác như người lao động không có lương, Nhà nước không thu được thuế…Ngoài việc gây ảnh hưởng tiêu cực nói trên, các hành vi này còn phải xem xét dưới giác độ thu lợi bất chính của con nợ và có thể tạo ra sự phản ứng tiêu cực của đông đảo người dân. Thực tế nhiều trường hợp vỡ quỹ tín dụng là một minh chứng không thể không đề cập tới. Vào thời kỳ đầu đổi mới việc vỡ quỹ tín dụng đã gây nên một tình trạng xã hội hỗn loạn. Các chủ nợ xông đi đòi nợ bằng nhiều cách kể cả bạo lực. Trong

khi đó các con nợ đã tẩu tán hết tài sản và bỏ trốn. Một ví dụ điển hình là vụ nước hoa Thanh Hương. Các hành vi như vậy cần phải bị ngăn chặn và trật tự cần phải được lập lại. Vì vậy pháp luật phá sản cần phải xem xét thấu đáo các trường hợp này.

Để hạn chế và ngăn chặn các hành vi đó, pháp luật quy định một số hành vi do thương nhân lâm vào tình trạng phá sản tiến hành sẽ bị Tòa án tuyên bố vô hiệu. Tuy nhiên, thực tế việc triển khai thực hiện các quy phạm pháp luật đó gặp không ít những vướng mắc, biểu hiện nhiều hạn chế và bất cập đòi hỏi cần phải sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ việc phá sản trên thực tế.

Việc tẩu tán tài sản thông thường được tiến hành dưới các vỏ bọc pháp lý là các giao dịch. Về hình thức chúng có vẻ hợp pháp, tuy nhiên động cơ của những giao dịch này là vụ lợi bất chính đáng. Vì vậy khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, để đảm bảo quyền lợi của các chủ nợ đồng thời để bảo toàn khối tài sản của con nợ tránh tình trạng tẩu tán tài sản nhằm trốn nợ, hoặc thực hiện các giao dịch có lợi cho một vài chủ nợ, gây bất lợi cho các chủ nợ còn lại và để tiến tới phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, đảm bảo môi trường kinh doanh lành mạnh, pháp luật phá sản cần thiết phải quy định một số giao dịch do thương nhân lâm vào tình trạng phá sản tiến hành có thể bị tòa án tuyên bố vô hiệu.

1.1.3. Ý nghĩa pháp lý của việc vô hiệu một số hành vi pháp lý trong pháp luật về phá sản

Trong kinh doanh, nhiều thương nhân vì nhiều lý do khác nhau mà lâm vào tình trạng phá sản, do vậy có tâm lý chung là muốn tiêu dùng tài sản của mình quá mức cần thiết, hay tìm cách cất giấu, tẩu tán tài sản để trốn tránh trách nhiệm trả nợ, giữ tài sản cho tương lai hoặc làm phúc cho những người thân quen. Vì vậy pháp luật quy định về việc vô hiệu hóa một số hành vi pháp lý trong pháp luật về phá sản sẽ tạo ra cơ sở pháp lý để hợp pháp hóa việc ngăn chặn và kiểm soát các tâm lý cũng như hành vi như vậy.

Đầu thời kỳ đổi mới, có thể do thiếu kiến thức và kinh nghiệm về kinh tế thị trường, Luật Phá sản 1993 quy định chỉ khi có bản án của tòa án, cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành và đồng thời ra quyết định phong tỏa tài sản, thì doanh nghiệp mới không được tẩu tán tài sản. Bởi thủ tục tố tụng diễn ra trong một khoảng thời gian khá dài, nên tạo khe hở cho con nợ bị phá sản tẩu tán tài sản bằng nhiều cách không bất hợp pháp thông qua các hành vi pháp lý. Mặc dù tòa án có thể áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời đối với thương nhân bị phá sản, nhưng không thể kiểm soát nổi việc tẩu tán tài sản, chưa kể đến việc tẩu tán tài sản còn diễn ra trước khi mở thủ tục phá sản. Vì thế việc quy định vô hiệu một số hành vi pháp lý trong Luật Phá sản là rất cần thiết và có rất nhiều mục đích:

Thứ nhất, nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ nợ từ việc lấy nợ trên tài sản của con nợ; ngăn chặn con nợ che giấu, tẩu tán tài sản khi rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn;

Thứ hai, nhằm ngăn cản việc các chủ nợ gây áp lực đòi nợ riêng rẽ;

Thứ ba, nhằm góp phần làm lành mạnh môi trường kinh doanh và giữ gìn trật tự xã hội.

Việc qui định vô hiệu một số hành vi pháp lý có ý nghĩa lớn về mặt pháp lý là tạo cơ sở pháp luật vững chắc nhằm tới các mục tiêu trên, thống nhất hóa và đơn giản hóa các qui định liên quan trong hệ thống pháp luật. Qua đây có thể thấy xâu chuỗi các qui định trong các lĩnh vực pháp luật khác nhau mà khởi đầu là luật dân sự và các lĩnh vực pháp luật kinh doanh, thương mại chuyên biệt có thể được đem áp dụng một cách minh bạch, dễ dàng và thuận lợi. Đồng thời, với các qui định như vậy, người dân nói chung và các thương nhân nói riêng rất dễ tiếp cận. Các qui định này có ý nghĩa lớn khác là làm cho Luật Phá sản không bị "phá sản" như Luật Phá sản 1993 bởi chúng góp phần làm cho đạo luật phá sản trở thành một đạo luật chuyên về lấy nợ tập thể. Điều đó khiến cho không chủ nợ nào có thể lấy nợ một cách riêng rẽ trên

tài sản của con nợ bị phá sản bỏ mặc các chủ nợ khác. Qua các qui định này người ta mới có thể vì thế mà xây dựng một cách hữu hiệu các tội phạm hình sự liên quan tới tẩu tán tài sản phá sản. Như vậy có thể nói việc xây dựng các qui định vô hiệu một số hành vi pháp lý trong Luật Phá sản năm 2004 là một tiến bộ pháp lý xuất phát từ một chính sách pháp luật rõ ràng và đúng đắn.

1.2. Nguồn gốc và nội dung pháp lý chủ yếu của việc tuyên vô hiệu một số hành vi pháp lý trong pháp luật về phá sản

Chế định tuyên bố hành vi pháp lý vô hiệu trong pháp luật về phá sản có nguồn gốc từ luật La Mã cổ đại. Chế định này có tên gọi là "proximum tempus decoctionis", theo đó một số giao dịch do con nợ thực hiện trước ngày mở thủ tục phá sản bị coi là đáng ngờ và có thể bị tòa án hủy bỏ.

"Proximum tempus decoctionis" được xây dựng trước hết nhằm bảo vệ quyền lợi và bảo đảm sự bình đẳng giữa các chủ nợ, xuất phát từ mối lo ngại con nợ rơi vào tình trạng phá sản có thể tẩu tán tài sản nhằm trốn tránh việc xiết nợ của các chủ nợ hoặc có những hành động ưu ái đặc biệt đối với một số chủ nợ nhất định [1].

Như vậy, mục tiêu ban đầu của chế định này là nhằm bảo vệ quyền lợi của chủ nợ.

Chịu ảnh hưởng của Luật La Mã, pháp luật của hầu hết các quốc gia ở phương Tây đều quy định việc hủy bỏ một số hành vi pháp lý do con nợ tiến hành trước khi mở thủ tục phá sản. Qua quá trình phát triển lâu dài pháp luật phá sản không còn chỉ nhằm thanh toán nợ cho các chủ nợ mà ngày càng quan tâm hơn đến vấn đề khôi phục lại hoạt động của doanh nghiệp mắc nợ. Mục tiêu của quy định về tuyên bố giao dịch vô hiệu vì thế cũng có sự thay đổi căn bản. Ngày nay, chế định này trước hết là nhằm bảo toàn khối tài sản của con nợ phục vụ cho việc phục hồi doanh nghiệp.

Trên cơ sở nguyên tắc tất cả tài sản phá sản phải được bảo vệ để trả cho các chủ nợ, một số hành vi làm giảm khối tài sản của thương nhân lâm

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 21/10/2023