lại, nếu hai cơ quan này không tìm được tiếng nói chung, việc người lao động tự xử để lấy lại quyền lợi là điều đương nhiên.
Điển hình là vụ việc xảy ra tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Ken Went (100% vốn Đài Loan; huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh) vào cuối tháng 5/2009. Khi ông Hso-Chi-Chi, giám đốc công ty bỏ về nước, gần 100 công nhân ở đây đã nháo nhào, vì khoản nợ lương gần 300 triệu đồng chưa được thanh toán. Lo ngại giám đốc công ty không quay trở lại Việt Nam, nhân viên văn phòng đã cùng với công nhân họp bàn, thống nhất phương án bán một số thành phẩm để thanh toán một phần nợ lương cho công nhân (khoảng 140 triệu đồng).
Sau hành vi tự phát này của tập thể công nhân, một mặt đề nghị giám đốc quay về Việt Nam giải quyết quyền lợi công nhân, các cơ quan chức năng huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ Chí Minh đã vận động công nhân bình tĩnh, không được manh động lấy đi tài sản, máy móc của doanh nghiệp.
Thực tế, việc liên hệ với các chủ doanh nghiệp vô trách nhiệm rất nhiêu khê, mất khá nhiều thời gian mà hiệu quả không được bao nhiêu. Thậm chí trong nhiều vụ việc, Sở Ngoại vụ Thành phố Hồ Chí Minh đích thân có công văn đề nghị Lãnh sự quán Hàn Quốc tại Thành phố Hồ Chí Minh can thiệp, hỗ trợ, song rất ít khi nhận được hồi âm. Cũng vì lý do trên, mà khi phát hiện chủ doanh nghiệp bỏ trốn còn để lại chút ít tài sản, máy móc - đối với các cơ quan chức năng là mừng như "bắt được vàng".
Có thể thấy được thực tế này qua vụ việc điển hình xảy ra tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Quang Sung Việt Nam (100% vốn Hàn Quốc; quận Gò Vấp, Thành phố Hồ Chí Minh). Trong quá
trình hoạt động, công ty còn nợ khoảng nửa tỉ đồng tiền lương tháng 7 và tháng 8/2008.
Tháng 8/2008, khi công nhân đến nhận lương thì ông Kwon - Ogyoon, giám đốc công ty đã bỏ về nước. Trước khi rời Việt Nam, Kwon - Ogyoon đã ủy quyền cho ông Kang - Yong - Suk, phó giám đốc công ty giải quyết toàn bộ các vấn đề phát sinh.
Trước áp lực của tập thể công nhân và các cơ quan chức năng, ông Kang - Yong - Suk buộc phải thanh lý toàn bộ máy móc, thanh toán được 200 triệu đồng tiền lương cho công nhân.
Tương tự, tại Công ty trách nhiệm hữu hạn Air Camp (100% vốn Hàn Quốc; may ba lô, túi xách, ở huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh), phát hiện ông chủ giám đốc "cao chạy xa bay" khỏi Việt Nam trong khi còn nợ hơn 200 triệu đồng tiền lương (tháng 10 và 11/2008), gần 170 công nhân tại đây đã làm áp lực với các cơ quan chức năng, yêu cầu thanh lý sản phẩm thành phẩm để trả nợ.
Trước áp lực của các cơ quan chức năng, đại diện công ty đã chi trả hai đợt lương, song vẫn còn nợ 86 triệu đồng. Khoản tiền này đến nay vẫn được xem là khoản nợ khó đòi.
Có thể bạn quan tâm!
- Những Hạn Chế, Vướng Mắc Của Quy Phạm Pháp Luật Phá Sản Về Các Hành Vi Pháp Lý Vô Hiệu
- Bất Cập Trong Quy Định Về Chủ Thể Có Quyền Yêu Cầu Tòa Án Tuyên Bố Giao Dịch Vô Hiệu
- Các hành vi pháp lý vô hiệu theo pháp luật phá sản ở Việt Nam - 9
- Các hành vi pháp lý vô hiệu theo pháp luật phá sản ở Việt Nam - 11
Xem toàn bộ 94 trang tài liệu này.
- Vụ việc Công ty trách nhiệm hữu hạn HaiMin Việt Nam (100% vốn Hàn Quốc; huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh). Công ty trách nhiệm hữu hạn HaiMin Việt Nam hoạt động từ 1994. Từ tháng 5/2005 đến 2006, công ty nợ lương công nhân kéo dài, tháng 9/2006, gần 100 công nhân tập trung đòi lấy tài sản trừ nợ khi biết ông Yang Soo Min, giám đốc công ty bỏ trốn.
Liên đoàn Lao động huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh đã thông báo cho Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn, Thành
phố Hồ Chí Minh. Theo chỉ đạo của Ủy ban nhân dân huyện, ngày 31/10/2006, nhà xưởng của công ty đã bị niêm phong.
Đến ngày 15/12/2006, Yang Soo Min ủy quyền cho ông Lee Kyung Hoon đã giải quyết trợ cấp thôi việc cho 61 công nhân. Riêng chế độ bảo hiểm xã hội, do công ty còn nợ hơn 1 tỉ đồng nên chưa thể chốt sổ cho công nhân.
Sở Lao động- Thương binh và Xã hội thành phố đề nghị Liên đoàn lao động huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh đại diện công nhân khởi kiện ra tòa, đồng thời yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn tiếp tục có biện pháp quản lý tài sản của Công ty trách nhiệm hữu hạn HaiMin Việt Nam để làm cơ sở giải quyết quyền lợi cho công nhân khi có kết quả xét xử của tòa án [14].
Vì công ty ngưng hoạt động, công nhân tản mát khắp nơi nên chỉ có 2 công nhân ủy quyền cho Liên đoàn lao động huyện khởi kiện công ty ra tòa nhưng các cấp tòa đùn đẩy. Khi công nhân nộp đơn khởi kiện thì Tòa án nhân dân thành phố đã đình chỉ giải quyết vụ án do hết thời hiệu. Cơ quan thi hành án kê biên tài sản doanh nghiệp để trả lại cho một chủ nợ khác của công ty.
Tự cứu mình (xiết tài sản) thì bản thân công nhân sẽ vô tình tự đẩy mình vào hành vi vi phạm pháp luật trong khi quy trình kiện tụng thì rối rắm. Rõ ràng, khi các ông chủ nhởn nhơ, thì họ là đối tượng gánh chịu thiệt thòi.
2.3. Kiến nghị
2.3.1. Định hướng sửa đổi, bổ sung quy định về thời gian thực hiện hành vi pháp lý vô hiệu
Để khắc phục những bất cập của quy định hiện hành về thời gian thực hiện các hành vi có thể tuyên bố vô hiệu, pháp luật phá sản không nên quy định ấn định chỉ các giao dịch, hành vi thực hiện trong khoảng thời gian 3 tháng trước ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản mới có thể bị liệt vào danh sách những giao dịch đáng ngờ và có thể bị tuyên bố vô hiệu mà
nên căn cứ vào mục đích của chế định tuyên bố giao dịch vô hiệu, đó là nhằm đối phó với việc tẩu tán tài sản của các con nợ gian trá khi đứng trước nguy cơ trở thành đối tượng của thủ tục phá sản.
Chính vì lý do đó, pháp luật phá sản nên sửa đổi, bổ sung quy định tại Khoản 1 Điều 43 về các giao dịch bị coi là vô hiệu như sau:
1. Các giao dịch sau đây của doanh nghiệp, hợp tác xã xác lập khi lâm vào tình trạng phá sản bị coi là vô hiệu:
a) Tặng cho động sản và bất động sản cho người khác;
b) Thanh toán hợp đồng song vụ trong đó phần nghĩa vụ của doanh nghiệp, hợp tác xã rõ ràng là lớn hơn phần nghĩa vụ của bên kia;
c) Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn;
d) Thực hiện việc thế chấp, cầm cố tài sản đối với các khoản nợ;
đ) Các giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã.
Quy định thời gian từ khi con nợ lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn sẽ khắc phục được những hạn chế, bất cập cũng như kẽ hở pháp lý cho các doanh nghiệp, hợp tác xã thực hiện. Như vậy, chỉ cần chứng minh được khi doanh nghiệp không thể thanh toán các khoản nợ đến hạn nhưng lại thực hiện một số hành vi mang tính chất tẩu tán tài sản như tặng cho động sản, bất động sản hoặc thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn thì toà cho các chủ thể có thẩm quyền đề nghị Tòa án tuyên bố hành vi pháp lý đó là vô hiệu theo quy định pháp luật phá sản để khôi phục khối tài sản của con nợ và nhằm bảo vệ quyền lợi cho các chủ nợ.
Còn sau khi tòa án đã ra quyết định mở thủ tục phá sản thì với các thiết chế của thủ tục này (như các quy định cấm, hạn chế đối với một số hoạt động nhất định, vai trò kiểm tra, giám sát của thẩm phán, tổ quản lý, thanh lý tài sản) khả năng tẩu tán tài sản của doanh nghiệp sẽ bị hạn chế đáng kể. Tuy
nhiên, cũng cần có quy định rõ theo hướng nếu doanh nghiệp, chủ sở hữu doanh nghiệp cố tình tẩu tán tài sản trong khoảng thời gian này thì thẩm phán, tổ quản lý, thanh lý tài sản phá sản, các chủ nợ phát hiện ra việc tẩu tán tài sản có quyền yêu cầu chấm dứt hành vi, yêu cầu Tòa án tuyên bố hành vi đó là vô hiệu và thu hồi lại tài sản tẩu tán nhằm khôi phục khối tài sản của doanh nghiệp.
Quy định việc doanh nghiệp thực hiện các giao dịch nhằm mục đích tẩu tán tài sản khi lâm vào tình trạng phá sản có thể bị tuyên bố vô hiệu sẽ tránh được quy định mang tính máy móc như hiện nay là chỉ xác định thời điểm thực hiện giao dịch là tính 3 tháng kể từ ngày tòa án thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản mà không quan tâm đến mục đích thực hiện giao dịch "đáng ngờ". Việc các nhà lập pháp đã lựa chọn thời điểm thực hiện giao dịch chứ không phải là thời điểm xác lập giao dịch làm căn cứ đánh giá mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp là không hợp lý, vì chính tại thời điểm xác lập giao dịch ý chí của các bên được ghi nhận và điều đó sẽ khẳng định được có hay không sự gian dối trong giao dịch đó.
Thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế, dân sự thậm chí thời gian để tòa án xem xét chấp nhận đơn yêu cầu giải quyết phá sản trên thực tế thường kéo dài. Do vậy, cần thiết quy định có tính nguyên tắc là: mọi hành vi tẩu tán tài sản có thể bị coi là vô hiệu tại bất cứ giai đoạn nào sau thời điểm phát sinh nghĩa vụ trả nợ của doanh nghiệp con nợ. Có nghĩa là kể cả trước khi bắt đầu thủ tục giải quyết phá sản ví dụ như nếu doanh nghiệp có hành vi tẩu tán tài sản trước khi bị khởi kiện ra tòa kinh tế thì giao dịch này cũng có thể bị coi là vô hiệu nếu chứng minh được là nhằm mục đích tẩu tán tài sản. Bởi vì theo quy định của pháp luật tố tụng kinh tế nếu trong quá trình giải quyết vụ án mà tòa án (kinh tế) phát hiện doanh nghiệp đó lâm vào tình trạng phá sản thì vụ tranh chấp kinh tế sẽ bị tạm đình chỉ để giải quyết theo trình tự thủ tục của Luật phá sản. Việc không quy định thời gian sẽ làm tăng thêm hiệu quả của Khoản 1 Điều 43. Với quy định này hoàn toàn có thể ngăn chặn được cả hành vi thành lập doanh nghiệp mới bằng việc rút tài sản của doanh nghiệp đang
tồn tại dẫn đến phá sản bởi các thiết chế của luật doanh nghiệp không kiểm tra được nguồn tài sản đưa vào tạo thành vốn điều lệ của doanh nghiệp với chiến thuật "ve sầu lột xác" để khỏi phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ, để lại công ty cũ với các khoản nợ.; hoặc những hành vi thành lập doanh nghiệp nhằm mục đích lừa đảo, chiếm đoạt tài sản của chủ nợ rồi nộp đơn yêu cầu tuyên bố phá sản.
Điều 10 Khoản 1 Điểm g của Luật Phá sản nêu rõ: Tổ quản lý, thanh lý tài sản được thành lập theo thủ tục yêu cầu phá sản của doanh nghiệp có quyền: "Phát hiện và đề nghị Thẩm phán ra quyết định thu hồi lại tài sản, giá trị tài sản hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã bị áp dụng thủ tục thanh lý đã bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp trong những trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật này" [19].
Điều 43 nêu rõ các giao dịch sau đây của doanh nghiệp, hợp tác xã lâm vào tình trạng phá sản được thực hiện trong khoảng thời gian ba tháng trước ngày Tòa án thụ lý đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản bị coi là vô hiệu:
(c) Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn
(đ) Các giao dịch khác với mục đích tẩu tán tài sản của doanh nghiệp, hợp tác xã [19].
- Để bảo toàn tài sản của doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, cần có những quy định để đề phòng và chống việc doanh nghiệp tẩu tán tài sản, thanh toán nợ một cách không công bằng cho các chủ nợ, đồng thời cần có quy định tạm đình chỉ việc thi hành tất cả các bản án, các quyết định của Tòa án và tạm đình chỉ giải quyết tất cả các loại án có liên quan đến tài sản doanh nghiệp mà để lại giải quyết chung theo thủ tục phá sản doanh nghiệp.
2.3.2. Định hướng sửa đổi quy định đối tượng có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu
Theo quy định tại khoản 1 Điều 44: chủ nợ không có bảo đảm và tổ quản lý, thanh lý tài sản có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch của doanh nghiệp là vô hiệu.
Thủ tục phá sản là thủ tục đòi nợ tập thể, quy định chỉ có chủ nợ không có bảo đảm mới có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu như đã phân tích ở phần trước là bất hợp lý và cần thiết phải sửa đổi theo hướng đại diện chủ nợ thay mặt cho các chủ nợ (trên cơ sở đề nghị của các chủ nợ có bảo đảm và không có bảo đảm) có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu để quyền lợi của chủ nợ có bảo đảm hoặc có bảo đảm một phần bị đe dọa trực tiếp bởi hành vi tẩu tán tài sản của doanh nghiệp trong trường hợp đối tượng của giao dịch nhằm mục đích tẩu tán tài sản lại là vật bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của doanh nghiệp, hơn nữa, để thống nhất với quy định tại Khoản 2 Điều 45 cho phép tất cả các chủ nợ không phân biệt có bảo đảm hay không có bảo đảm được quyền yêu cầu tòa án đình chỉ hợp đồng đang có hiệu lực.
Ngoài ra, để tăng cường hiệu quả của chế định về giao dịch vô hiệu, thiết nghĩ cũng nên mở rộng đối tượng có quyền yêu cầu tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu cho cả Viện kiểm sát nhân dân. Tòa án trong quá trình giải quyết thủ tục phá sản cũng nên có quyền tự mình tuyên bố giao dịch vô hiệu nếu xét thấy đã hội đủ điều kiện cần thiết.
Như vậy, cần sửa đổi khoản 1 Điều 44 về quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu như sau:
1. Trong quá trình Tòa án tiến hành thủ tục phá sản, đại diện chủ nợ, Tổ trưởng Tổ quản lý, thanh lý tài sản, Viện kiểm sát nhân dân và Tòa án có quyền yêu cầu Tòa án tuyên bố các giao dịch của doanh nghiệp, hợp tác xã quy định tại khoản 1 Điều 43 của Luật này là vô hiệu.
2.3.3. Định hướng sửa đổi, bổ sung quy định về hậu quả pháp lý của việc tuyên bố giao dịch vô hiệu
Khoản 2 Điều 43 Luật phá sản chỉ nêu nguyên tắc khi giao dịch bị tuyên bố vô hiệu thì tài sản thu hồi được phải nhập vào khối tài sản của doanh nghiệp là đối tượng của thủ tục phá sản.
Theo quy định của Bộ luật dân sự, một giao dịch vô hiệu không làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt quyền, nghĩa vụ của các bên kể từ thời điểm xác lập.
Khi một giao dịch bị tuyên bố vô hiệu thì coi như giao dịch đó chưa từng tồn tại, các bên phải khôi phục lại tình trạng ban đầu và hoàn trả cho nhau những gì đã nhận. Trường hợp không hoàn trả được bằng hiện vật thì phải hoàn trả bằng tiền.
Tuy nhiên, xuất phát từ đặc thù của pháp luật phá sản, cần có những quy định áp dụng riêng đối với trường hợp tuyên bố vô hiệu trong pháp luật phá sản. Chế định tuyên bố giao dịch vô hiệu quy định tại Điều 43, 44 và chế định đình chỉ hợp đồng đang có hiệu lực quy định tại Điều 47 đều xuất phát từ lợi ích của doanh nghiệp và đều nhằm mục đích bảo toàn khối tài sản của doanh nghiệp. Vì vậy, cần thiết quy bên tham gia giao dịch bị tuyên bố vô hiệu và bên ký kết hợp đồng bị đình chỉ thực hiện những quyền và lợi ích ngang nhau.
Đối với tài sản thu hồi lại từ giao dịch vô hiệu, sau khi nhập vào khối tài sản chung của doanh nghiệp thì tùy theo mục đích của thủ tục đang áp dụng mà được dùng cho việc phục hồi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hay được đem bán đấu giá và chia theo thứ tự ưu tiên theo quy định tại Điều 37 Luật Phá sản năm 2004.
Hậu quả của việc tuyên bố giao dịch vô hiệu đối với người thứ ba: Khi tuyên bố giao dịch bị vô hiệu có thể đem lại lợi ích hoặc gây thiệt hại cho người thứ ba.Thực tế đa số trường hợp hủy bỏ giao dịch sẽ gây hậu quả bất lợi cho bên thứ ba. Ví dụ, trường hợp người bảo lãnh sẽ chịu trách nhiệm trả nợ thay cho doanh nghiệp được bảo lãnh khi việc thanh toán nợ của doanh nghiệp bị tuyên bố vô hiệu.
Vì vậy, cần sửa đổi theo hướng: bên giao kết sau khi đã hoàn trả tài sản cho doanh nghiệp sẽ được coi như chủ nợ không có bảo đảm đối với tài sản đã chuyển giao cho doanh nghiệp và do vậy cũng được hưởng các quyền