- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: công nghiệp nhẹ, sành sứ, thuỷ tinh, vườn quốc gia, khu bảo tồn thiên nhiên, sản xuất nông lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, chế biến nông, lâm sản với tổng mức đầu tư dưới 15 tỷ đồng.
- Các dự án đầu tư xây dựng công trình: Y tế, văn hoá, giáo dục, phát thanh truyền hình, xây dựng dân dụng khác (trừ xây dựng dân dụng nhà ở), kho tàng, du lịch, thể dục thể thao, nghiên cứu khoa học và các dự án khác với tổng mức đầu tư dưới 7 tỷ đồng.
1.1.3. Chức năng của đầu tư dự án
Đầu tư với tư cách là làm tăng trưởng và thay đổi kết cấu của TSCĐ thực hiện một loạt chức năng, trong đó có nhiều chức năng quan trọng cần được chú ý:
- Chức năng về năng lực: là chức năng tạo ra năng lực mới cho đầu tư dự án. Các năng lực mới tạo ra giá trị sử dụng cho cá thể và thong qua đó các nhu cầu cá thể được thỏa mãn. Vì vậy chức năng năng lực được tạo ra khả năng đảm bảo duy trì hoặc phát triển sản xuất sản phẩm dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu cuối cùng hoặc khả năng bảo vệ và cải tạo môi trường nhằm khắc phục những ảnh hưởng xấu đến sản xuất và tiêu dung. Chức năng năng lực được coi là chức năng đầu tiên của đầu tư dự án. Các chức năng khác được suy ra và hỗ trợ chức năng này.
- Chức năng thay thế: là chức năng biểu hiện khả năng thay đổi từng tổ hợp các nhân tố sản xuất và khả năng thay thế lẫn nhau của từng nhân tố, do kết quả của quá trình đầu tư dự án. Tuy nhiên ý nghĩa của chức năng thay thế phải được biểu hiện ở việc tiết kiệm chi phí, ở các khu vực sản xuất vật chất nhờ quá trình đầu tư dự án thay thế hợp lý các nhân tố sản xuất mà đảm bảo tiết kiệm các chi phí sản xuất. Vai trò, chức năng thay thế của đầu tư dự án ngày càng tăng lên cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ (vì bản chất của nó chính là việc sử dụng vật liệu và công nghệ mới, cao cấp hơn thay thế cái cũ và công nghệ đang sử dụng) và với việc hướng dần nền kinh tế vào loại hình phát triển chiều sâu mà đặc trưng là thay thế có hiệu quả các yếu tố sản xuất.
- Chức năng thu nhập và sinh lời: được xác định bởi khả năng tạo ra thu nhập do quá trình đầu tư dự án mang lại. Chức năng thu nhập và sinh lời ở đây chính là sự kết hợp giữa chức năng năng lực và chức năng thay thế để tạo điều kiện tăng tổng sản phẩm quốc nội và tổng sản phẩm quốc gia. Đặc trưng kết quả thu nhập là chỗ đánh giá cộng dụng của đầu tư dự án về phương diện ảnh hưởng của nó, tạo ra mối quan hệ giá trị và thu nhập trong nền kinh tế. Do đó, chức năng thu nhập và sinh lời của đầu tư dự án chính là tác động của nó trong việc tạo ra và phân phối thu nhập quốc dân. Nói một cách chính xác hơn là tạo ra và tăng thu nhập của từng chủ thể trong hệ thống kinh tế, mà trước hết là ảnh hưởng đến tăng thu nhập của các tổ chức và cá nhân tham gia vào quá trình đầu tư, làm
ảnh hưởng đến việc tăng lợi nhuận và tổng thu nhập của các tổ chức kinh doanh và các tầng lớp dân cư trong nền kinh tế.
Có thể bạn quan tâm!
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả Kinh tế - Xã hội một số dự án đầu tư hạ tầng từ vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang - 2
- Phương Pháp Nghiên Cứu 6.1.phương Pháp Thống Kê Mô Tả:
- Các giải pháp nâng cao hiệu quả Kinh tế - Xã hội một số dự án đầu tư hạ tầng từ vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang - 4
- Các Nhân Tố Ảnh Đến Hiệu Quả Việc Sử Dụng Vốn Nsnn Vào Đầu Tư Dự
- Đặc Điểm Điều Kiện Tự Nhiên Của Thành Phố Long Xuyên
- Tình Hình Thu, Chi Ngân Sách Tại Địa Thành Phố Long Xuyên Giai Đoạn 2011-2015
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
1.1.4. Hiệu quả sử dụng vốn NSNN vào đầu tư dự án
1.1.4.1 Vốn NSNN
Vốn là toàn bộ giá trị của đầu tư để tạo ra các sản phẩm nhằm mục tiêu sinh lời trong tương lai, Các nguồn lực được sử dụng cho hoạt động đầu tư được gọi là vốn đầu tư, nếu quy đổi ra thành tiền thì vốn đầu tư là toàn bộ chi phí đầu tư. Bất kỳ một quá trình tăng trưởng hoặc phát triển kinh tế nào muốn tiến hành được điều đó đều phải có vốn. Vốn đầu tư là nhân tố quyết định để kết hợp các yếu tố trong sản xuất kinh doanh, nó trở thành yếu tố có tầm quan trọng hàng đầu đối với tất cả các dự án đầu tư cho việc phát triển kinh tế đất nước.
Theo nghĩa chung nhất thì VĐT dự án bao gồm: chi phí cho việc khảo sát, quy hoạch xây dựng, chuẩn bị đầu tư, chi phí thiết kế xây dựng, chi phí mua sắm và lắp đặt thiết bị và các chi phí khác theo một dự án nhất định.
Các nguồn lực thuộc quyền sở hữu và chi phối toàn diện của Nhà nước được sử dụng cho hoạt động đầu tư dự án được gọi là VĐT dự án từ NSNN.
NSNN với tư cách là một quỹ tiền tệ tập trung lớn nhất của Nhà nước tham gia huy động và phân phối VĐT thông qua hoạt động thu, chi ngân sách.
- Căn cứ vào phạm vi, tính chất và hình thức thu cụ thể, VĐT dự án từ NSNN được hình thành từ các nguồn sau:
+ Nguồn vốn thu trong nước (thuế, phí, lệ phí, các khoản thu từ bán, cho thuê tài sản, tài nguyên của đất nước...và các khoản thu khác).
+ Nguồn vốn từ nước ngoài (vốn hỗ trợ phát triển chính thức ODA, nguồn viện trợ phi Chính phủ).
- Phân cấp quản lý ngân sách chia VĐT dự án từ NSNN gồm:
+ VĐT dự án của ngân sách trung ương được hình thành từ các khoản thu của ngân sách trung ương nhằm đầu tư vào các dự án phục vụ cho lợi ích quốc gia, nguồn vốn này được giao cho các bộ, ngành quản lý sử dụng.
+ VĐT dự án của ngân sách địa phương được hình thành từ các khoản thu của ngân sách địa phương nhằm đầu tư vào các dự án phục vụ cho lợi ích của từng địa phương đó, nguồn vốn này thường được giao cho các cấp chính quyền địa phương (tỉnh, huyện, xã) quản lý thực hiện. Tuy nhiên, ở thời điểm hiện tại thì việc giao cấp thẩm quyền làm chủ đầu tư dự án giới hạn ở cấp huyện và tương đương trở lên.
- Mức độ kế hoạch hóa, VĐT từ NSNN được phân thành:
+ Vốn đầu tư xây dựng tập trung: nguồn vốn này được hình thành theo kế hoạch với tổng mức vốn và cơ cấu vốn do Thủ tướng Chính phủ quyết định giao cho từng bộ, ngành và từng tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
+ VĐT dự án từ nguồn thu được để lại: thu từ phí, lệ phí, thuế, thu bán, cho thuê nhà của Nhà nước, chuyển quyền sử dụng đất,....
+ VĐT dự án theo chương trình quốc gia.
+ VĐT dự án thuộc NSNN nhưng được để lại tại đơn vị để đầu tư tăng cường cơ sở vật chất như: truyền hình, thu học phí, ...
Nguồn VĐT dự án từ NSNN phần lớn được sử dụng để đầu tư cho các dự án không có khả năng thu hồi vốn trực tiếp, có vốn đầu tư lớn, có tác dụng chung cho nền KT-XH mà các thành phần kinh tế khác không có khả năng hoặc không muốn tham gia đầu tư. Nguồn vốn cấp phát không hoàn lại này từ NSNN có tính chấp bao cấp nên dễ bị thất thoát, lãng phí, đòi hỏi phải quản lý chặt chẽ. Tuy nhiên, trong nguồn vốn NSNN thì phải loại nguồn vốn không được đưa vào kế hoạch và cấp phát theo kế hoạch của Nhà nước (vốn để lại tại đơn vị), khả năng quản lý, kiểm soát của Nhà nước gặp khó khăn hơn. Vốn ngoài nước thường phụ thuộc vào điều kiện nhà tài trợ đặt ra, cũng làm cho việc quản lý bị chi phối. Đối với viện trợ không hoàn lại thường do phía nước ngoài điều hành nên giá thành cao.
- VĐT từ NSNN được đầu tư cho các dự án sau:
+ Các dự án kết cấu hạ tầng KT-XH, quốc phòng - an ninh không có khả năng thu hồi vốn và được quản lý sử dụng phân cấp chi NSNN cho đầu tư phát triển.
+ Hỗ trợ các dự án của các doanh nghiệp đầu tư vào các lĩnh vực cần có sự tham gia của Nhà nước theo quy định của pháp luật.
+ Chi cho công tác điều tra, khảo sát lập quy hoạch tổng thể phát triển KT- XH vùng, lãnh thổ; quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn khi được Chính phủ cho phép.
1.4.1.2Khái niệm hiệu quả vốn đầu tưdự án
Do nguồn lực khan hiếm có hạn nên nhu cầu đầu tư luôn luôn cao hơn khả năng đầu tư của nền kinh tế. Điều này đòi hỏi vốn đầu tư phải được sử dụng có hiệu quả nhằm trong một thời gian nhất định với một khối lượng VĐT có hạn nhưng lại có thể thỏa mãn tốt nhất nhu cầu đầu tư nhằm góp phần thỏa mãn tối đa nhu cầu xã hội.
Như vậy hiệu quả VĐT là một phạm trù kinh tế khách quan, nó tồn tại là do sự có hạn của nguồn lực.Yêu cầu sử dụng hiệu quả nguồn lực nói chung, sử dụng hiệu quả VĐT nói riêng càng trở nên bức thiết đối với nền kinh tế. Hiệu quả VĐT dự án hiểu một cách nói chung nhất biểu hiện mối quan hệ so sánh giữa các lợi ích của VĐT dự án và khối lượng VĐT dự án bỏ ra nhằm đạt được những lợi ích đó. Lợi ích của VĐT dự án thể hiện ở mức độ thỏa mãn nhu cầu xã hội của sản phẩm do VĐT dự án bỏ ra, bao gồm lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội.
Lợi ích kinh tế của VĐT dự ánthể hiện ở mức độ thực hiện các mục tiêu kinh tế của quá trình đấu tư dự án nhằm thỏa mãn nhu cầu chủ yếu các nhu cầu vật chất của xã hội. Do đó lợi ích kinh tế biểu hiện cụ thể về sự thay đổi cán cân thương mại, ở mức độ lợi nhuận thu được, ở sự thay đổi chi phí sản xuất,...
Lợi ích xã hội của VĐT dự án, ngoài việc thực hiện các mục tiêu kinh tế nói trên còn thực hiện các mục tiêu xã hội khác nhau như mục tiêu chính trị, mục tiêu an ninh quốc phòng, văn hóa xã hội...Theo đó, lợi ích xã hội của VĐT dự án còn bao gồm những sự thay đổi về điều kiện sống và điều kiện lao động, về môi trường, về hưởng thụ văn hóa, phúc lợi công cộng, chăm sóc y tế và quyền bình đẳng,...Dựa vào quá trình quản lý đầu tư dự án ta thấy: từ khi có VĐT, tiến hành thực hiện đầu tư sẽ tạo một khối lượng tài sản cố định. Khi các TSCĐ này được sử dụng (giai đoạn khai thác dự án) sẽ tạo ra một khối lượng sản phẩm hàng hóa và dịch vụ nhất định. Lợi ích của VĐT chỉ xuất hiện khi mà sản phẩm hàng hóa dịch vụ được sử dụng nhằm thỏa mãn nhu cầu theo mục tiêu đã định.
1.4.1.3 Tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả VĐT dự án
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về tiêu chuẩn hiệu quả VĐT, có thể phân thành 3 nhóm quan niệm chính như sau:
Nhóm 1: Coi tiêu chuẩn hiệu quả là một mức hiệu quả nào đó (ví dụ hiệu quả định mức Hd) và dựa vào đó để kết luận VĐT có hiệu quả hay không. Nếu H>Hd có thể kết luận VĐT có hiệu quả. Ngược lại H<Hd có thể rút ra VĐT không hiệu quả.
Nhóm 2: Cho tiêu chuẩn hiệu quả VĐT là một mức cao nhất có thể đạt được trong điều kiện nhất định (H max). Theo quan niệm này, hiểu quả VĐT thực đạt được (H) thường nhỏ hơn hoặc bằng (H max), theo đó H càng tiến lại gần (Hmax) vốn đầu tư càng có hiệu quả.
Nhóm 3: Điển hình là T.charatyrob cho rằng "Tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả VĐT là do quy luật kinh tế cơ bản quyết định". Quan niệm này đã gắn mục tiêu của nền kinh tế với phương tiện để đạt được mục tiêu đó và trong thực tế quan niệm này được sử dụng rất rộng rãi.
Các tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả VĐT có thể phân thành hai loại:
a. Tiêu chuẩn lợi ích tối đa.
b. Tiêu chuẩn chi phí tối thiểu.
Tiêu chuẩn lợi ích tối đa được xem xét trong điều kiện khi đánh giá hiệu quả dự án có nhiều phương án thay thế lẫn nhau cùng có mức VĐT như nhau phương án nào có lợi ích KT-XH tối đa thì được coi là tối ưu, hiệu quả nhất nên được lựa chọn.
Tiêu chuẩn chi phí tối thiểu cũng được xem xét trong điều kiện hiệu quả dự án đầu tư có nhiều phương án thay thế lẫn nhau cùng có mức lợi ích KT-XH định
trước, phương án nào có chi phí VĐT ít nhất được coi là hiệu quả nhất nên được lựa chọn để thực hiện đầu tư.
Hai loại tiêu chuẩn hiệu quả trên nhìn chung kết quả tương tự nhau và đưa đến những kết luận như nhau. Tiêu chuẩn lợi ích tối đa tạo điều kiện sử dụng đầy đủ các nguồn lực hiện có làm cho hiệu quả từng bộ phận thống nhất với hiệu quả toàn bộ nền kinh tế. Trong khi đó tiêu chuẩn chi phí tối thiểu chưa quan tâm đầy đủ đến việc tận dụng các nguồn lực hiện có do đó hiệu quả cục bộ đã không dẫn đến hiệu quả toàn bộ. Loại hình tiêu chuẩn lợi ích tối đa được coi là cơ bản nên được sử dụng phổ biến.
1.4.1.4Các chi tiêu sử dụng để đánh giá hiệu quả sử dụng VĐT dự án
Nền kinh tế luôn luôn tồn tại mâu thuẫn, một bên là nhu cầu xã hội có tính vô hạn và một bên là nguồn lực khan hiếm, có hạn để tạo ra sản phẩm hàng hóa và dịch vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu xã hội.
Việc đo lường đánh giá hiệu quả VĐT trở nên rất cần thiết đặc biệt là đối với nền kinh tế kém phát triển có mức thu nhập thấp như nước ta.Lợi ích của VĐT mang lại bao gồm lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội, biểu hiện của lợi ích kinh tế là tăng thu nhập quốc dân, nâng cao mức sống làm thay đổi cơ cấu và thúc đẩy nền kinh tế phát triển, từ đó làm tăng thu ngân sách Nhà nước, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm chi phí, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, bảo vệ môi trường,....
Lợi ích xã hội biểu hiện lợi ích chính trị, quốc phòng, an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, phát triển văn hóa, tăng cường sự bình đẳng và quyền lợi của các quốc gia dân tộc.
Để đánh giá hiệu quả của hoạt đồng đầu tư, người ta thường sử dụng các nhóm chỉ tiêu sau:
* Nhóm chỉ tiêu phản ảnh hiệu quả đầu tư chung
- Chỉ tiêu ICOR: dùng để phản ánh mối quan hệ giữa đầu tư và tăng trưởng qua công thức:
ICOR=I/ GDP Hay I=ICOR x GDP
Trong đó:
ICOR: là hệ số tỷ lệ giữa vốn đầu tư và tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội I: là vốn đầu tư.
GDP: mức thay đổi trong tổng sản phẩm quốc nội.
Hệ số ICOR cho biết trong thời kỳ cụ thể muốn tăng thêm 1 đồng GDP thì cần bao nhiêu đồng VĐT. Hệ số này càng thấp thì hiệu quả VĐT càng cao. Nếu hệ số ICOR không đổi thì tỷ lệ giữa VĐT(I) so với GDP sẽ quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế, (tỷ lệ đầu tư càng cao thì tốc độ tăng trưởng càng cao và ngược lại).
Hệ số ICOR đóng vai trò rất quan trọng trọng việc xây dựng các kế hoạch kinh tế. Đây là chỉ tiêu được sử dụng rộng rãi nhất trong việc tính toán nhu cầu VĐT theo các mô hình kinh tế.
Thông qua việc sử dụng hệ số ICOR chúng ta thấy rõ sự gia tăng VĐT đặt trong mối quan hệ với sự gia tăng GDP. Chỉ tiêu ICOR ở mỗi nước phụ thuộc vào nhiều nhân tố như: cơ cấu kinh tế và hiệu quả đầu tư trong các ngành, các vùng lãnh thổ, cũng như phụ thuộc vào hiệu quả của chính sách kinh tế nói chung. Thông thường ICOR trong nông nghiệp thấp hơn trong công nghiệp; ICOR trong giai đoạn chuyển đổi cơ chế chủ yếu phụ thuộc vào việc tận dụng năng lực sản xuất. Do đó ở các nước phát triển, tỷ lệ đầu tư thấp thường dẫn đến tốc độ tăng trưởng thấp.
- Hiệu suất VĐT: Hiệu suất VĐT biểu hiện mối quan hệ so sánh giữa GDP và VĐT trong kỳ được xác định theo công thức:
Hi = GDP/I
Trong đó:
Hi: Hiệu suất vốn đầu tư trong kỳ.
GDP: Tổng sản phẩm quốc nội trong kỳ. I: Tổng mức VĐT trong kỳ
- Chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động đầu tư Các kết quả đạt được do thực hiện đầu tư
Hiệu quả hoạt động đầu tư =
Tổng VĐT thực hiện
Công thức này phản ánh mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất kinh doanh, dịch vụ và nâng cao đời sống nhân dân của tổng VĐT đã bỏ ra trong một thời kỳ so với thời kỳ khác (hoặc so với định mức chung). Chỉ tiêu này tỷ lệ thuận với kết quả thu được, kết quả đầu ra nhiều thì hiệu quả đạt được cao. Nó có thể được định lượng thông qua các chỉ tiêu như: Giá trị TSCĐ tăng thêm, số km đường, số nhà máy nước, điện, số m2 nhà tăng thêm…
Để tính hiệu quả VĐT TSCĐ tăng thêm có thể dùng công thức hệ số thực hiện VĐT:
H = FA/I
Trong đó:
H: Hệ số thực hiện VĐT.
FA: Giá trị TSCĐ được đưa vào sử dụng trong kỳ. I: Tổng số VĐT trong kỳ.
Hiệu suất TSCĐ: Hiệu suất TSCĐ ký hiệu (Hfa) biểu hiện sự so sánh giữa khối lượng tổng sản phẩm quốc nội được tạo ra trong kỳ (GDP) với khối lượng giá trị TSCĐ trong kỳ (FA) được tính theo công thức:
H (fa) = GDP/FA
Chỉ tiêu này cho biết trong kỳ nào đó, một đồng giá trị TSCĐ sử dụng sẽ tạo ra bao nhiêu đồng sản phẩm quốc nội.
TSCĐ là kết quả do VĐT tạo ra, do đó hiệu suất TSCĐ phản ánh một cách khái quát hiệu quả VĐT trong kỳ. Chỉ tiêu này được sử dụng rộng rãi trong phân tích kinh tế vĩ mô.
- Hệ số thực hiện VĐT
Hệ số thực hiện VĐT là một chỉ tiêu quan trọng. Nó phản ánh mối quan hệ giữa lượng VĐT bỏ ra với các TSCĐ (kết quả của VĐT) được đưa vào sử dụng. Hệ số được tính theo công thức sau:
H0 = FA/I
Trong đó:
H0: Hệ số thực hiện VĐT
FA: Giá trị TSCĐ được đưa vào sử dụng trong kỳ I: Tổng số VĐT trong kỳ
Theo cách tính này hệ số VĐT càng lớn biểu hiện hiệu quả VĐT càng cao
* Nhóm chỉ tiêu kinh tế phản ánh hiệu quả đầu tư cho một dự án cá biệt
Đo lường và đánh giá hiệu quả VĐT ở tầm vi mô là hiệu quả của từng dự án đầu tư, là trọng tâm của việc đo lường và đánh giá hiệu quả VĐT. Các nhà kinh tế học hiện nay thường dùng một số chỉ tiêu sau:
- Thời gian hoàn vốn
Thời gian hoàn vốn là khoảng thời gian khai thác dự án (thường tính bằng năm) mà toàn bộ các khoản thu nhập do dự án mang lại có thể bù đắp đủ toàn bộ VĐT của dự án, số tiền thu hồi này không bao gồm lãi suất phát sinh trả cho việc sử dụng vốn ứng trước. Thời gian hoàn vốn được tính bằng công thức:
n
Vi
n
T=i1i= 1, n
Li Ki
i1
Trong đó:
Vi: Số VĐT ứng trước năm i
Li: Lợi nhuận ròng bình quân đến năm thứ i Ki: Khấu hao TSCĐ bình quân đến năm thứ i
- Chỉ tiêu giá trị hiện tại thuần (Net present Value – NPV)
Giá trị hiện tại thuần là tổng lãi ròng của cả đời dự án được chiết khấu về năm hiện tại theo tỷ lệ chiết khấu nhất định.
NPV=
Bi Ci
(1r)i
n
Hay NPV =
Bi1
Ci1
n
i0
Trong đó:
(1r)ii0
(1r)i
Bi: Lợi ích của dự án, tức là bao gồm tất cả những gì mà dự án thu được (như doanh thu bán hàng, lệ phí thu hồi, giá trị thanh lý thu hồi..)
Ci: Chi phí của dự án, tức là bao gồm tất cả những gì mà dự án bỏ ra (như chi phí đầu tư, chi phí bảo dưỡng, sửa chữa, chi trả, thuế và trả lãi vay..)
R: tỷ suất chiết khấu
n: số năm hoạt động kinh tế của dự án (tuổi thọ kinh tế của dự án)
i: Thời gian của dự án (i= 0, n ).
Nếu dự án có NPV >0 thì dự án khả thi về mặt tài chính.
Nếu cần phải xem xét nhiều dự án đầu tư dự án đã khả thi về mặt tài chính nhưng loại trừ lẫn nhau thì phương án có NPV lớn nhất là phương án đánh giá về mặt tài chính.
Nếu các phương án của lợi ích dự án như nhau thì phương án có giá trị hiện tại của chi phí nhỏ nhất, phương án đó đánh giá nhất về mặt tài chính.
Nhược điểm của chỉ tiêu này là phải đưa vào lãi suất chiết khấu được lựa chọn. Lựa chọn lãi suất chiết khấu rất phức tạp vì có nhiều cách thức và mỗi cách thức kết quả khác nhau. Thông thường lãi suất chiết khấu được xác định bằng lãi suất thu lợi tối thiểu có thể chấp nhận được (vốn dài hạn, vốn ngắn hạn, vốn cổ phần..) và lãi suất vay trên thị trường vốn.
- Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (Internal Rate ò Return – IRR)
Tỷ suất hoàn vốn nội bộ (IRR) là tỷ suất chiết khấu mà ứng với nó giá trị hiện tại thuần (NPV) bằng 0.
Biểu hiện dưới dạng công thức là:
NPV= Bi Ci= 0
(1r)i