Đánh Giá Chung Tình Hình Sử Dụng Vốn Đầu Tư Vào Các Dự Án Từ Nguồn Ngân Sách Nhà Nước


2.2.7. Những hạn chế, tác động tiêu cực

Trong những năm qua, vốn đầu tư xây dựng trên địa bàn thành phố liên tục gia tăng và chiếm tỷ lệ lớn 17,6% trong tổng chi bình quân giai đoạn, qua đó đã tạo nên sự chuyển biến quan trọng về cơ sở vật chất kỹ thuật, thúc đẩy mạnh mẽ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng năng lực sản xuất, cải thiện văn minh đô thị, đóng góp quyết định vào phát triển kinh tế xã hội trong quá trình công nghiệp hiện đại hoá đất nước…

Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đạt được, vẫn còn những hạn chế tác động tiêu cực đến xã hội.

- Công tác quy hoạch là một trong những khâu quan trọng hàng đầu để đảm bảo đầu tư xây dựng có hiệu quả và phát triển bền vững. Trong các năm qua, quy hoạch đã trở thành một trong những căn cứ quan trọng cho việc định hướng phát triển kinh tế xã hội 5 năm và hàng năm, kế hoạch sử dụng đất đai trên địa bàn thành phố, đồng thời làm căn cứ kêu gọi thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và hổ trợ phát triển (ODA). Tuy nhiên công tác quy hoạch còn hạn chế, không theo kịp tốc độ đầu tư, không phù hợp với tiến trình đổi mới. Hạn chế yếu kém của công tác quy hoạch.

- Việc bố trí vốn đầu tư thuộc ngân sách nhà nước trong những năm qua có nhiều tiến bộ, nhưng tình trạng dàn trải trong bố trí kế hoạch vốn ở thành phố vẫn chưa khắc phục triệt để. Tình trạng này đã diễn ra nhiều năm, gây lãng phí lớn và dẫn đến hiệu quả đầu tư thấp, bởi một số dự án đầu tư, chiếm lượng vốn đầu tư lớn nhưng chưa mang lai hiệu quả kinh tế cao. Hiệu quả sử dụng vốn NSNN chưa cao, chưa phát huy lợi thế so sánh và lợi thế cạnh tranh trong từng ngành.

- Công tác thanh tra kiểm tra, kiểm tra trong lĩnh vực đầu tư xây nhiều năm qua đã đạt được một số kết quả nhất định, qua đó cho thấy tác dụng thiết thực của công tác này đối với một dự án đầu tư. Tuy nhiên bên cạnh đó lĩnh vực này cũng biểu hiện rất nhiều hạn chế.

2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG TÌNH HÌNH SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ VÀO CÁC DỰ ÁN TỪ NGUỒN NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC

2.3.1. Những điểm mạnh

Một là, kinh tế xã hội ổn định, trật tự an ninh được giữ vững, phát huy được những mặt tích cực của cơ chế thị trường. Việc hoạch định và thực hiện tốt các đường lối đổi mới của Đảng ta trong thời gian qua là đúng đắn, đặc biệt là chiến lược phát triển trung hạn và dài hạn. Quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với tính chất, trình độ yêu cầu phát triển của lực lượng sản xuất, đã giải phóng và phát huy những tiềm năng to lớn của thành phố, tạo thuận lợi khai thác tiềm lực bên ngoài.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.


Hai là, thành phố đã tận dụng được những lợi thế to lớn mà xu thế hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ của đất nước mang lại như: xuất nhập khẩu tăng, tiếp nhận những công nghệ tiên tiến, hiện đại, tiếp nhận vốn đầu tư từ nước ngoài và phương thức quản lý hiện đại. Đây là yếu tố quan trọng và tích cực, tạo nên những thành công trong lĩnh vực đầu tư và phát triển của thành phố.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả Kinh tế - Xã hội một số dự án đầu tư hạ tầng từ vốn ngân sách nhà nước tại thành phố Long Xuyên, tỉnh An Giang - 12

Ba là, thành phố Long Xuyên là nơi có nhiều tài nguyên thiên nhiên: vật liệu xây dựng, du lịch, thủy sản... là nơi giao lưu kinh tế thuận lợi với đường bộ với vị trí thuận lợi giao thương với các vùng lân cận.

Bốn là, các chính sách về đầu tư, chính sách của nhà nước đã thay đổi theo hướng giảm bớt các thủ tục hành chính, ưu đãi đầu tư, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Điều đó đã tạo cho thành phố có điều kiện phát huy những tiềm năng, thu hút vốn đầu tư từ các nơi khác và cả nước ngoài.

b) Những nguyên nhân chủ quan

Một là, Đảng bộ và nhân dân thành phố Long Xuyên đã nỗ lực phấn đấu thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước. Nghị quyết đại hội đảng bộ lần thứ XI, nhiệm kỳ 2010 - 2015 đã đề ra nhưng giải pháp lớn, phù hợp với đường lối đổi mới của Đảng, sát với tình hình thực tế của địa phương, chính sách và giải pháp đúng đắn đã phát huy được sức mạnh nội lực của thành phố, đồng thời thu hút được sự hỗ trợ các nguồn lực bên ngoài.

Hai là, thành phố đã thực hiện tốt phương châm kết hợp nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế, đó là việc phân bổ VĐT từ NSNN để tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng, khu đô thị, những ngành mũi nhọn và các vùng tiềm năng; đồng thời bằng những chính sách về tài chính, tín dụng, đất đai, chính sách hỗ trợ đầu tư trở lại... để thu hút nguồn lực đầu tư từ bên ngoài.

Ba là, đa dạng hoá nguồn VĐT phân bổ và sử dụng đúng mục đích nguồn VĐT vào các dự án. VĐT từ NSNN chủ yếu tập trung cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng KT - XH, an ninh - quốc phòng. Các dự án đầu tư NSNN chủ yếu đưa vào các lĩnh vực giao thông, thuỷ lợi, văn hoá, giáo dục, y tế, phúc lợi công cộng, nghiên cứu khoa học.

Bốn là, thành phố đã có cơ chế phân công, phân cấp, quản lý và điều hành ngân sách một cách hợp lý; tiết kiệm được chi ngân sách để tập trung cho đầu tư phát triển; khuyến khích các xã, phường và các ngành phát triển để thu hút đầu tư trở lại; chính sách huy động VĐT phù hợp với mục tiêu “đổi đất lấy công trình”.

Năm là, thường xuyên cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư XDCB từ quy trình thẩm định, phê duyệt dự án đầu tư, thẩm định và phê duyệt TKKT - TDT đến tổ chức đấu thầu, chỉ định thầu, quyết toán... Nhờ vậy đã rút ngắn được thời gian thẩm định, giảm bớt phiền hà, nhanh chóng đưa dự án vào thực hiện làm cho hiệu quả sử dụng VĐT tăng lên.


Sáu là, công tác quản lý và đầu tư các dự án đã đi vào nề nếp. Đã thành lập các Ban quản lý dự án thành phố. Trình độ Ban Quản lý dự án, các chủ đầu tư, các tổ chức tư vấn ngày càng được nâng lên. Máy móc phục vụ cho công tác này cũng được thường xuyên được đổi mới, tin học hoá trong quản lý đầu tư, trang bị máy móc và giám định công trình...

2.3.2. Những hạn chế tồn tại

2.3.2.1 Công tác quy hoạch

Công tác quy hoạch giữa các vùng, các ngành còn chồng chéo, chậm triển khai. Các quy hoạch chưa đồng bộ, thiếu tính dự báo và ổn định đã dẫn đến việc khai thác, sử dụng, quản lý xây dựng, giới thiệu địa điểm đầu tư còn bị động. Chất lượng một số dự án quy hoạch còn hạn chế, đội ngũ cán bộ làm công tác quy hoạch còn thiếu và yếu. Công tác quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, tài nguyên thiếu chặt chẽ, xảy ra tình trạng lãng phí, vi phạm Luật Đất đai trong việc giao và cho thuê đất. Việc vi phạm quy hoạch lộ giới gây lãng phí, tốn kém vốn đầu tư. Phần lớn là các quy hoạch đã công bố nhưng không thực hiện, bị “treo” ở một số phường nội thị như:Mỹ Phước, Mỹ Quý, Mỹ Thới,… cho dù đã có quy hoạch chi tiết, gây lãng phí rất lớn nguồn vốn của Nhà nước.

2.3.2.2 Công tác kế hoạch hoá

Công tác kế hoạch hoá còn nhiều bất cập, việc phân bổ VĐT cho các nơi chưa thật sự hợp lý. Đầu tư còn dàn trải, chưa tập trung, chưa dứt điểm cho các công trình trọng điểm, chuyển tiếp; việc phân bổ vốn chậm; nhiều dự án chưa đủ thủ tục vẫn ghi kế hoạch vốn.

Trong thời gian qua trên địa bàn thành phố vẫn chưa xây dựng được kế hoạch đầu tư Trong đầu tư các dự án còn có hiện tượng khối lượng xây dựng dở dang lớn, nhiều công trình chờ vốn do không được bố trí kế hoạch vốn năm đó mặc dù là công trình chuyển tiếp. Ngược lại có hiện tượng nghịch lý là vốn NSNN đã bố trí theo kế hoạch lại bị ứ đọng không thanh toán được do đơn vị chưa đủ thủ tục theo quy định của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng và các văn bản hướng dẫn. Các đơn vị thi công vẫn đi vay các tổ chức tín dụng để đảm bảo tiến độ, chưa thu lại được vốn để tái đầu tư trong khi đó vẫn phải trả lãi vay cho các tổ chức tín dụng nên giá trị công trình vẫn phải gánh chịu những chi phí bất hợp lý.

2.3.2.3 Chưa làm tốt công tác quản lý và thực hiện dự án đầu tư

Các chủ đầu tư thường quan tâm đến số lượng dự án và khối lượng vốn được phân bổ. Họ ít chú trọng đến mặt hiệu quả KT - XH do VĐT mang lại. Hiện tượng khoán trắng cho các đơn vị tư vấn lập dự án còn khá phổ biến. Nhiều dự án thiếu tính khả thi, phải phê duyệt lại hoặc điều chỉnh nhiều lần; cán bộ làm công tác thẩm định còn yếu kém về chuyên môn và thiếu thông tin cần thiết.... cũng chính vì công tác chuẩn bị đầu tư chưa được chú trọng nên có không ít dự


án chuẩn bị đầu tư phải xoá bỏ, do không khả thi để thực hiện dự án, làm lãng phí không ít vốn nhà nước. Và cũng ở công tác này chưa chú trọng nên một số dự án bỏ qua giai đoạn chuẩn bị, triển khai ngay ở khâu thực hiện nên không tính toán kỹ càng gây lãng phí, thất thoát VĐT NSNN.

Trong đấu thầu có hiện tượng thông thầudàn xếp trước nên chất lượng đấu thầu không cao không giảm được phần nào tỷ lệ tiết kiệm chi ngân sách của nhà nước.

Công tác chỉ định thầu cũng nhiều bất cập: các chủ đầu tư thường chia nhỏ dự án để chỉ định thầu, hoặc chỉ định sai điều kiện quy định của Luật đất thầu. Lựa chọn nhà thầu thiếu hoặc không có kinh nghiệm, hoặc tình hình tài chính thiếu lành mạnh, làm cho các dự án thiếu chất lượng.

Công tác giải phóng mặt bằng của nhiều dự án chưa được các chủ đầu tư triển khai một cách quyết liệt, chưa chủ động chuẩn bị các điều kiện như: quỹ đất, quỹ nhà, công tác chuẩn bị đền bù giải phóng mặt bằng nên một số dự án ghi vốn nhiều năm nhưng vẫn không triển khai được.... Tiềm năng và khả năng về quỹ đất là một nguồn lực rất lớn, đặc biệt là đất đô thị, đất mặt đường chưa được khai thác một cách có hiệu quả.

Công tác giải ngân còn hạn chế; khối lượng thực hiện và thanh toán VĐT ở đầu năm còn ít; tình trạng vốn chờ công trình còn khá phổ biến.

Chức năng và trách nhiệm lập báo cáo quyết toán thuộc đầu tư, đa số các chủ đầu tư khi công trình hoàn thành lập báo cáo quyết toán công trình, trình cơ quan có thẩm quyền thẩm tra và phê duyệt quyết toán không kịp thời. Đa số đều lập báo cáo quyết toán chậm so với quy định từ 6 tháng đến 1 năm, thậm chí có công trình chậm từ 2 đến 3 năm.

Công tác tư vấn bao gồm các công việc: tư vấn khảo sát thiết kế lập dự án khả thi, báo cáo đầu tư, tư vấn khảo sát, thiết kế dự toán - tổng dự toán; tư vấn ban quản lý dự án; tư vấn lập hồ sơ mời thầu và phân tích đánh giá hồ sơ mời thầu; tư vấn giám sát, kiểm toán... Bao gồm nhiều ngành, lĩnh vực: giao thông, thuỷ lợi, dân dụng công nghiệp, hạ tầng... hoạt động rất rộng, đối tượng công việc phong phú nhưng chất lượng của công tác tư vấn chưa cao.

2.3.2.4 Công tác thanh tra, giám sát, kiểm tra trong quản lý vốn đầu tư chưa được tăng cường

Qua thanh tra, kiểm tra của các cơ quan: Thanh tra nhà nước Tỉnh, thanh tra UBND, ban, ngành, kiểm toán... đã phát hiện sai phạm thất thoát VĐT từ NSNN trong các khâu: trình tự thực hiện đầu tư các dự án từ nguồn NSNN, lập thẩm định và phê duyệt dự án, thiết kế - tổng dự toán, đấu thầu, chỉ định thầu; nghiệm thu, thanh toán, quyết toán công trình...

Tuy nhiên công tác chỉ đạo, kết luận thanh tra dự án đầu tư chưa tốt nên một số cuộc thanh tra chưa làm rõ thất thoát lãng phí và những hành vi tham


những tiêu cực trong quản lý, sử dụng vốn ở khâu nào mà chỉ dựng lại ở việc xem xét về trình tự thủ tục đầu tư nên chưa quy rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân để kiến nghị xử lý.

2.3.2.5 Bất cập trong phân cấp quản lý, trong các văn bản quy phạm pháp luật về đầu tư trong chính sách khuyết khích đầu tư

Hiện nay các chủ đầu tư được phân cấp mạnh trong khâu quản lý dự án đầu tư, như UBND cấp huyện, thành phố được phê duyệt dự án từ 3 tỷ đồng trở xuống. Ngoài ra các chủ đầu tư được quyền chủ động trong khâu lựa chọn đơn vị tư vấn hoặc các phần việc, quyết định thành lập hội đồng đấu thầu, nghiệm thu... Đây là việc làm thể hiện giao toàn bộ trách nhiệm và tự chịu hoàn toàn trách nhiệm trong lĩnh vực này.

Tuy nhiên chất lượng của các Ban quản lý nói chung còn nhiều hạn chế, đặc biệt là các đơn vị Đoàn, cơ quan hành chính, sự nghiệp, xã, phường... Họ không được đào tạo bài bản, không am hiểu về đầu tư nên dẫn đến vô tình hoặc cố ý mà thất thoát lãng phí trong đầu tư.

Các Chính sách khuyết khích, thu hút đầu tư của thành phố chưa thật rạch ròi, thông thoáng về thời gian miễn và nộp các loại thuế và thuê đất giữa các nhà đầu tư, gây ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các nhà đầu tư. Việc tạo ra một hành lang pháp lý thông thoáng là một việc làm cấp bách để kêu gọi và thu hút VĐT.

2.3.3. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém

2.3.3.1 Nguyên nhân khách quan

Thứ nhất, do nền kinh tế thế giới và trong nước phục hồi chậm, thiên tai diễn biến bất thường, giá cả thị trường thì thiếu ổn định, kho khăn về vốn, … đã tác động đến việc đầu tư phát triển của thành phố.

Thứ hai, tốc độ phát triển kinh tế - xã hội và đô thị hóa nhanh dẫn đến phát sinh nhiều loại chất thải gây tác động xấu đến môi trường.

Thứ ba, hệ thống thiết bị trang bị còn lạc hậu nhưng chưa được đổi mới đúng cách, đúng thời điểm. Mặt khác, quá trình đổi mới cũng là quá trình mà sự hoà nhập kinh tế thành phố và tỉnh với cả nước, các nước trong khu vực và quốc tế diễn ra sâu rộng hơn. Bên cạnh những tác động tích cực, kinh tế thành phố cũng chịu những tác động tiêu cực từ mọi phía. Những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tiền tệ ở Đông Nam Á, tình hình lạm phát cao, chỉ số giá tiêu dùng vượt ngưỡng cho phép đã có ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế thành phố. Để ổn định và phát triển kinh tế với tốc độ cao và bền vững, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội thành phố cần đổi mới cơ chế quản lý như nước.

2.3.3.2 Nguyên nhân chủ quan


Thứ nhất, do cơ sở vật chất thiếu nên tỷ lệ tiết kiệm và đầu tư so với GDP còn hạn hẹp. Khối lượng vốn đầu tư huy động được rất hạn chế không đáp ứng được nhu cầu đầu tư. Hiệu quả sản xuất kinh doanh và sức cạnh tranh còn thấp. Đầu tư cho phát triển vẫn còn tình trạng dàn trải, chưa hợp lý. Chưa xác định chính xác và tập trung đầu tư cho nhưng ngành mũi nhọn. Thu hút đầu tư nước ngoài giảm, dịch vụ chất lượng cao phát triển chậm, hiệu quả hạn chế, lĩnh vực tài chính ngân hàng còn nhiều mặt chậm đổi mới, sản xuất chưa kịp gắn kết với nhu cầu của thị trường, sắp xếp đổi mới doanh nghiệp nhà nước còn chậm. Hoạt động của các hợp tác xã chuyển đổi còn lúng túng. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh chưa được quan tâm, hỗ trợ đúng mức từ phía Nhà nước. Tình trạng quan hệ hợp tác với các địa phương và các vùng trong cả nước còn nhiều hạn chế, lợi thế so sánh của thành phố chưa được phát huy, nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Điều này làm cho khối lượng VĐT huy động được rất ít, kết hợp với việc bố trí vốn thiếu tập trung, thiếu đồng bộ, co kéo đáp ứng nhiều mục tiêu đầu tư cấp bách nên hiệu quả kinh tế thấp, chủ trương đầu tư chưa đúng, công tác chuẩn bị đầu tư kém và thiếu thiết kế tổng thể.

Thứ hai, quy chế quản lý đầu tư và xây dựng chưa rõ ràng, không ổn định. Thông qua hàng loạt các văn bản pháp quy từ Luật, quy chế quản lý đến các văn bản dưới Luật khá đầy đủ nhưng chưa đồng bộ và còn có những sơ hở đã bị lợi dụng trong quá trình thực thi các văn bản nói trên. Mặt khác, tuy đã có những quy định hướng dẫn rõ ràng nhưng vẫn không được chấp hành hoặc hiểu sai hoặc cố tình làm sai.

Thứ ba, môi trường đầu tư trên địa bàn thành phố chưa thực sự được cải thiện, cơ chế chính sách thu hút VĐT từ nước ngoài còn nhiều bất cập, chưa tạo nên một hành lang pháp lý thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi gọi VĐT, mặt khác do thủ tục hành chính chồng chéo gây cản trở cho doanh nghiệp và cá nhân trong và ngoài nước góp VĐT.

Các biện pháp hỗ trợ đầu tư xây dựng các khu công nghiệp, chuẩn bị kết cấu hạ tầng ngoài hàng rào khu công nghiệp... chưa được quan tâm thực hiện, giá thuê đất chưa phù hợp với các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ.

Thứ tư, cơ chế quản lý đầu tư xây dựng và tổ chức đầu tư chưa đồng bộ và bộc lộ nhiều bất cập, liên tục thay đổi nên tạo ra nhiều khe hở gây thất thoát, lãng phí VĐT. Bên cạnh cơ chế quản lý đầu tư là công tác đầu tư chưa đồng bộ, chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các ban, ngành trong lĩnh vực đầu tư, dẫn đến tình trạng chồng chéo trong quá trình thi công.

Thứ năm, chất lượng công tác hoạch định chiến lược và quy hoạch phát triển KT - XH của thành phố còn hạn chế. Mối quan hệ giữa quy hoạch và giải phóng mặt bằng còn bộc lộ nhiều khiếm khuyết. Chiến lược và quy hoạch định


hướng phát triển KT - XH của thành phố chưa được thực hiện có hiệu quả, nhiều dự án không được thực hiện theo quy hoạch chung của tỉnh.

Thứ sáu, công tác xây dựng chiến lược phát triển KT - XH trên địa bàn chưa sát với tình hình thực tế, chưa thấy được lợi thế so sánh với các vùng, địa phương khác; quy hoạch các ngành chưa đầy đủ và thiếu chính xác nên không thể trở thành chỗ dựa tin cậy cho các quyết định đầu tư. Nhiều chủ trương đầu tư được cấp có thẩm quyền phê duyệt sai ngay từ địa điểm, thời điểm đầu tư do thiếu tính đồng bộ nên chất lượng dự án chưa cao, trình độ tổ chức tư vấn thiết kế còn yếu chưa quan tâm đến môi trường sinh thái, vùng nguyên liệu, các tài liệu địa chất công trình,...

Thứ bảy, chủ đầu tư là người được giao trách nhiệm trực tiếp quản lý và sử dụng vốn để thực hiện đầu tư theo quyết định của pháp Luật. Tuy nhiên nhiều chủ đầu tư không có chuyên môn trong lĩnh vực đầu tư, tự đặt ra cho mình quyền hạch sách chỉ đạo bên B thi công theo ý mình, nhiều chủ đầu tư còn giao cho nhà thầu tự lo công việc bỏ qua nhưng quy trình, quy phạm trong quá trình đầu tư. Nhiều công trình có khối lượng lớn không chịu làm hồ sơ để thanh toán cho bên B hoặc công trình đã đưa vào khai thác sử dụng nhưng không chịu làm báo cáo quyết toán trình cấp có thẩm quyền thẩm tra và phê duyệt, thủ tục còn mất nhiều thời gian trong khâu thủ tục hành chính, một số chủ đầu tư thiếu tinh thần trách nhiệm, nhiều hiện tượng giao phó, hoặc bỏ mặc cho đơn vị tư vấn triển khai chuẩn bị dự án, song các văn bản của Nhà nước chưa có những chế tài quy định trách nhiệm khi dự án không mang lại hiệu quả như dự án đã đề ra. Tuy nhiên năng lực hiện nay của một số chủ đầu tư đã có nhiều chuyển biến nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu và nhiệm vụ được giao, thiếu những cán bộ có trình độ chuyên môn.

Thứ tám, chất lượng công tác tổ chức tư vấn thấp, chưa đáp ứng nhu cầu thực tế. Hầu hết các dự án trình thẩm định, phê duyệt vòng một đều không đủ điều kiện, phê duyệt phải chỉnh sửa, bổ sung, nhiều dự án trong quá trình tổ chức thực hiện, thậm chí có dự án chưa khởi công đã phải phê duyệt điều chỉnh dẫn đến kéo dài thời gian thủ tục chuẩn bị đầu tư, chuẩn bị xây dựng dự án. Cơ chế chính sách vận hành của dự án là một trong những yếu tố quyết định đến tính khả thi trong việc triển khai dự án. Tuy nhiên, vấn đề này chưa được đầu tư chất xám một cách thoả đáng và tồn tại tình trạng chủ đầu tư và đơn vị tư vấn trong chờ, ỷ lại vào ý kiến của cơ quan thẩm định.

Thứ chín, trình độ, năng lực, của các cơ quan, cá nhân quản lý trong lĩnh vực đầu tư. Hiện nay trên địa bàn thành phố còn thiếu trầm trọng những cán bộ có trình độ chuyên môn trong lĩnh vực. Do vậy, hầu hết những sai phạm trong quá trình đầu tư gây thất thoát lãng phí lớn cho NSNN đều xảy ra ở những bộ phận yếu kém về chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp.


Trong giai đoạn 2011 - 2015, đường lối đổi mới được thực hiện, theo đó các chính sách mở cửa và cải cách kinh tế được tiến hành có hệ thống rộng rãi và sâu sắc theo lộ trình phù hợp. Nhờ vậy đã thu nhiều thành tích quan trọng trong việc ổn định và phát triển kinh tế của thành phố nói chung và trong lĩnh vực đầu tư nói riêng, tạo đà cho bước phát triển.

Tóm tắt chương 2

Trong chương này tác giả khái quát về tình hình kinh tế - xã hội của thành phố Long Xuyên và thực trạng đầu tư các dự án hạ tầng từ NSNN trên địa dựa trên các số liệu thứ cấp đã thu thập. Từ đó đưa ra đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội các dự án đầu tư từ NSNN, đánh giá về tình hình, kết quả, hiệu quả đạt được của quá trình thực hiện đầu tư cũng như những hạn chế của địa phương trong việc đầu tư các dự án.

Việc phân tích, đánh giá một cách chính xác đầy đủ những nguyên nhân chủ quan, khách quan của những thành công và hạn chế trong lĩnh vực đầu tư từ nguồn vốn NSNN sẽ là những căn cứ thực tiễn quan trọng cho những giải pháp có tính khả thi cao, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng VĐT từ NSNN nói chung và trên địa bàn thành phố nói riêng trong giai đoạn 2016 - 2020.Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả kinh tế xã hội dự án đầu tư các dự án làm cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp tại Chương 3.

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 27/09/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí