Cân Đối Diện Tích Đất Canh Tác Lúa Ứng Với Các Kịch Bản Nbd

Bảng 3.16. Cân đối diện tích đất canh tác lúa ứng với các kịch bản NBD



STT


Hạng mục

Diện tích (ha)

KỊCH BẢN NƯỚC BIỂN DÂNG 12 CM

1

Diện tích đất canh tác lúa năm hiện trạng

10.858,01

2

Diện tích đất canh tác lúa bị mất

3.571,97

-

Diện tích đất canh tác lúa bị mất do ngập úng1

700,67

-

Diện tích đất canh tác lúa bị mất bị nhiễm mặn

2.871,30

-

Diện tích đất canh tác lúa bị mất do cả bị ngập và nhiễm mặn

0,00

3

Diện tích đất canh tác lúa còn lại

7.286,04

-

Diện tích đất lúa 2 vụ

419,00

-

Diện tích đất lúa 1 vụ

6.867,04

KỊCH BẢN NƯỚC BIỂN DÂNG 17 CM

1

Diện tích đất canh tác lúa năm hiện trạng

10.858,01

2

Tổng diện tích đất canh tác lúa bị mất

4.371,92

-

Diện tích đất canh tác lúa bị mất do ngập úng2

1.401,46

-

Diện tích đất canh tác lúa bị mất bị nhiễm mặn

2.970,46

-

Diện tích đất canh tác lúa bị mất do ngập úng và nhiễm mặn

0

3

Diện tích đất canh tác lúa còn lại

6.486,09

-

Diện tích đất lúa 2 vụ

220,17

-

Diện tích đất lúa 1 vụ

6.265,92


KỊCH BẢN NƯỚC BIỂN DÂNG 75 CM


1

Diện tích đất canh tác lúa năm hiện trạng

10.858,01

2

Tổng diện tích đất canh tác lúa bị mất

5.338,42

-

Diện tích đất canh tác lúa bị mất do ngập úng3

2.038,19

-

Diện tích đất canh tác lúa bị mất bị nhiễm mặn

3.173,23

-

Diện tích đất canh tác lúa bị mất do ngập úng và nhiễm mặn

127

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 118 trang tài liệu này.

Bước đầu nghiên cứu tác động của nước biển dâng đến đất canh tác lúa huyện Gò Công Đông – tỉnh Tiền Giang - 11



STT


Hạng mục

Diện tích (ha)

3

Diện tích đất canh tác lúa còn lại

5.519,59

-

Diện tích đất lúa 2 vụ

140,00

-

Diện tích đất lúa 1 vụ

5.379,59

Nguồn: Tính toán của tác giả, 2012.


3.2.3.6. Chuyển đổi trong nội bộ đất canh tác lúa


Nước biển dâng không những làm mất đi diện tích đất canh tác lúa, mà còn tác động tiêu cực, làm thay đổi cơ cấu mùa vụ đối với diện tích đất canh tác lúa còn lại. Với thời gian của một vụ lúa trung bình là 110 ngày, kết quả tính toán cho thấy khoảng thời gian có thể trồng lúa biến động rất lớn trên toàn vùng của huyện. Ứng với cả ba kịch bản nước biển dâng thì toàn bộ đất canh tác lúa đều không thể cấy được 3 vụ, mà phải chuyển thành cấy 2 vụ, một số chuyển sang cấy 1 vụ; toàn bộ diện tích đất canh tác cấy 2 vụ phải chuyển sang cấy 1 vụ. Cụ thể như sau:

- Ứng với kịch bản nước biển dâng 12 cm thì:


+ Diện tích đất canh tác lúa 3 vụ giảm từ 10.828,01 ha xuống còn 0 ha. Tức là toàn bộ diện tích canh đất lúa không thể canh tác được 3 vụ.

+ Diện tích đất canh tác lúa 2 vụ tăng từ 330 ha lên 419,0 ha.

+ Diện tích đất canh tác lúa 1 vụ tăng từ 0,0 ha lên 6.867,04 ha.


- Ứng với kịch bản nước biển dâng 17 cm thì:

+ Diện tích đất canh tác lúa 3 vụ giảm từ 10.828,01 ha xuống còn 0 ha. Tức là toàn bộ diện tích canh đất lúa không thể canh tác được 3 vụ.

+ Diện tích đất canh tác lúa 2 vụ giảm từ 330 ha xuống còn 220,17 ha.


+ Diện tích đất canh tác lúa 1 vụ tăng từ 0 ha lên 6.265,92 ha.

- Ưng với kịch bản nước biển dâng 75 cm thì:

+ Diện tích đất canh tác lúa 3 vụ giảm từ 10.828,01 ha xuống còn 0 ha. Tức là toàn bộ diện tích canh đất lúa không thể canh tác được 3 vụ.

+ Diện tích đất canh tác lúa 2 vụ giảm từ 330 ha lên 140,0 ha.


+ Diện tích đất canh tác lúa 1 vụ tăng từ 0,0 ha lên 5.379,59 ha.


Bảng 3.17. Chuyển đổi trong nội bộ đất canh tác lúa


STT

Hạng mục

Diện tích (ha)

KỊCH BẢN NƯỚC BIỂN DÂNG 12 CM

1

Diện tích lúa 3 vụ chuyển thành 2 vụ

419,00

2

Diện tích lúa 2 vụ chuyển thành 1 vụ

330,00

3

Diện tích lúa 3 vụ chuyển thành 1 vụ

6.537,04

KỊCH BẢN NƯỚC BIỂN DÂNG 17 CM

1

Diện tích lúa 3 vụ chuyển thành 2 vụ

220,17

2

Diện tích lúa 2 vụ chuyển thành 1 vụ

330,00

3

Diện tích lúa 3 vụ chuyển thành 1 vụ

5.935,92

KỊCH BẢN NƯỚC BIỂN DÂNG 75 CM

1

Diện tích lúa 3 vụ chuyển thành 2 vụ

140,00

2

Diện tích lúa 2 vụ chuyển thành 1 vụ

330,00

3

Diện tích lúa 3 vụ chuyển thành 1 vụ

5.049,59

Nguồn: Tính toán tác giả năm 2012.


3.2.4. Tác động của nước biển dâng đến hệ thống rừng ngập mặn


Rừng ngập mặn có vai trò quan trọng đối với việc có chức năng chắn sóng, chống xói mòn, chống xâm thực,…có vai trò quan trọng đối với việc bảo vệ nội đồng, đặc biệt là diện tích đất canh tác lúa.

Khi nước biển dâng cao do tác động của BĐKH, diện tích rừng phòng hộ này sẽ giảm tác dụng của nó, xâm nhập mặn sẽ tiến sâu vào trong nội đồng làm cho các chất dinh dưỡng trong môi trường đất được bảo vệ bởi lớp thực vật trên bề mặt mất

đi, đất sẽ bị xói mòn, trơ hóa. Không có các hệ thực vật, rừng cây chắn lũ, các dòng nước chảy qua thì đất sẽ bị xói mòn và gây sạt lở nghiêm trọng. Việc phá huỷ lớp phủ bề mặt đã làm giảm khả năng giữ nước của đất, tạo điều kiện để các tầng nhiễm mặn dưới sâu xâm nhập dần lên bề mặt đất, gây mặn hóa, phèn hoá toàn bộ tầng đất mặt, làm chết nhiều loại cây trồng và thuỷ sản.‌

3.3. ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP GIẢM ỨNG PHÓ (GIẢM THIỂU VÀ THÍCH ỨNG) VÀ SỬ DỤNG HIỆU QUẢ ĐẤT LÖA

Các giải pháp giảm thiểu và thích ứng với nước biển dâng đối với huyện Gò Công Đông được xây dựng trên cơ sở Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu, kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu của ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn giai đoạn 2011-2015 và tầm nhìn đến năm 2050, chiến lược ứng phó với biến đổi khí hậu tỉnh Tiền Giang.

Tác động

Giảm nhẹ

Đồng thời các giải pháp đưa ra trên cơ sở phải phù hợp với thực trạng điều kiện tự nhiên và dự báo nước biển dâng huyện Gò Công Đông.



Nước biển dâng


Thích ứng

Ứng phó


Hình 3.14. Sơ đồ ứng phó (giảm thiểu và thích ứng) với nước biển dâng (Đường liền chỉ ảnh hưởng hoặc phản ứng trực tiếp. Đường gián đoạn chỉ ảnh hưởng hoặc phản ứng gián tiếp).

3.3.1. Giải pháp công trình

Nếu xét trong điều kiện công trình thủy lợi hiện có và tiếp tục cải tạo, nâng cấp và đầu tư xây dựng mới một cách đồng bộ thì hệ thống thủy lợi sẽ phát huy vai trò kiểm soát lũ, kiểm soát mặn, đặc biệt là ứng phó với nước biển dâng.

Đê biển được xem là công trình đầu tiên trong hệ thống công trình bảo vệ sản xuất nông nghiệp, đất canh tác lúa cũng như tính mạng và tài sản của nhân dân trước những hiểm họa từ phía biển. Đê biển có vai trò rất quan trọng trong việc phát triển bền vững các dải đất ven biển, điều tiết mặn ngọt dải ven biển, đảm bảo nguồn nước ngọt nội đồng, là tấm lá chắn hữu hiệu ngăn chặn thảm họa nước biển dâng. Tuy vậy, do hệ thống đê biển đã được hình thành qua nhiều thời kỳ, giai đoạn khác nhau với mục đích nhiệm vụ không giống nhau. Do đó, hệ thống thiếu thiếu sự đồng bộ, không thống nhất về chỉ tiêu thiết kế, xây dựng và hầu như chưa đảm bảo yêu cầu kỹ thuật nhất là trong điều kiện nước biển dâng. Hệ thống đê biển huyện Gò Công Đông do không được duy tu bảo dưỡng thường xuyên nên nhiều đoạn đã xuống cấp, tuyến đê sụt lún, sạt lở, công trình dưới đê bị hư hỏng khá nhiều.

Để tăng cường sự hữu hiệu của hệ thống đê biển huyện Gò Công Đông trước nguy cơ nước biển dâng thì Chính phủ đã phê duyệt dự án nâng cấp, mở rộng đê biển Gò Công từ nay đến năm 2020. Dự án nâng cấp, mở rộng đê biển Gò Công Đông khi hoàn thành sẽ ngăn triều cường, nước biển dâng, có khả năng chống lại những cơn bão trên cấp 10, bảo vệ an toàn cho đất lúa, hoa màu, cây ăn trái và hàng ngàn nhà dân các địa phương.

- Trước tiên, sẽ thực hiện những hạng mục như đầu tư nâng cấp tuyến đê có chiều dài hơn 21km chạy dọc theo bờ biển từ xã Tân Thành đến xã Vàm Láng, huyện Gò Công Đông với cao trình +4m, bề rộng mặt đê 7,5m được trải nhựa.

- Tỉnh sẽ xây dựng tuyến đê phòng thủ song song và cách đê chính khoảng 1km chạy dọc theo kênh Ba (Gò Công Đông) có chiều dài gần 12km, cao trình đê

+3m, bền rộng mặt đê 6m.

- Xây dựng hệ thống kênh đa mục tiêu: Hệ thống kênh tưới; hệ thống kênh tiêu; kết hợp thoát lũ. (kiểm soát mặn, điều tiết nước, ngọt hóa và , đáp ứng tốt cho sản xuất nông nghiệp, nuôi trồng thủy sản), gắn với phát triển giao thông nông thôn để phát huy hiệu quả đồng bộ. Việc xây dựng các công trình mới phải có khả năng ngăn được nước biển dâng.

- Xây dựng hệ thống cống ngăn mặn: Các hệ thống cống ngăn mặn thiết kế có cửa đóng mở tự động hay bán tự động nhưng phải kết hợp giao thông thủy. Hệ thống cống đóng mở trên các kênh tiêu nước để giữ nước ngọt trong kênh, đặc biệt là những tháng cuối mùa mưa để sử dụng trong mùa khô. Có thể thấy, đây là một việc hoàn toàn có thể thực hiện được và thực sự cần thiết. Hệ thống cống ngăn mặn sẽ ngăn cản sự xâm thực mặn trên các sông chính. Cùng với đó, việc tích nước trong các kênh tiêu, cung cấp nguồn nước ngọt tưới trong mùa khô, ngăn cản quá trình bốc mặn, phèn lên tầng mặt. Chủ trương cuối mùa mưa ngăn nước, giữ nước trong kênh càng lâu càng tốt. Lượng nước tích trữ có thể sử dụng để điều hòa dòng chảy ngăn cản xâm

nhập mặn.


3.3.2. Giải pháp phi công trình


3.3.2.1. Giải pháp sử dụng các giống lúa thích hợp


a. Sử dụng giống lúa nổi thích hợp với thời gian ngập dài.

Các giống lúa thông thường được lai gene Submergence và Snorkel (Nhật Bản) có thể chống chịu nhiều kịch bản ngập lụt. Nếu nước ngập nhanh và sâu, gene Submergence sẽ phát huy tác dụng. Nếu nước ngập từ từ nhưng kéo dài, gene Snorkel sẽ giúp cây lúa vượt lên cao khỏi mặt nước và cho thu hoạch như bình thường ngay cả khi ngập lụt trong nhiều tuần lễ.

Ngoài ra, còn bộ giống lúa ngập úng do Cố giáo sư Viện sỹ Vũ Tuyên Hoàng đã lai tạo thành công vào năm 1980 (viết tắt là chữ U: giống U14, U17,…) được trồng đại trà đem lại kết quả khả quan tại một số tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long

cần tiếp tục nghiên cứu chọn lọc, lai tạo các giống lúa chịu ngập úng thích hợp với vùng Gò Công Đông.

b. Sử dụng giống lúa thích hợp với các loại đất nhiễm mặn: Các giống OM5464, OM 5166, OM 5629, OM 6677 có khả năng chịu được độ mặn 3 - 4 phần ngàn. Riêng giống lúa IR 64 Subon 1 đang được thí nghiệm cho thấy có khả năng thích ứng với độ mặn 5 - 6 phần ngàn ngập úng trong khoảng 21 ngày. Một số dòng lúa chịu mặn mới như: OM7347, OM9915, OM9921 và OM9916 có tính chịu mặn khá tốt, gạo có mùi thơm đậm, cơm ngon, đang được khảo nghiệm và nhân rộng tại một số trung tâm giống của tỉnh.

3.3.2.2. Giải pháp chuyển đổi cơ cấu cây trồng


Đề xuất cơ cấu cây trồng phù hợp với điều kiện sinh thái của từng tiểu vùng đạt hiệu quả kinh tế cao, bền vững về môi trường.

+ Chuyển đất canh tác 3 vụ lúa sang trồng hai vụ lúa kết hợp nuôi cá đồng, tôm nước ngọt để tăng hiệu quả sử dụng đất.

+ Cơ cấu cây trồng và mùa vụ cần chuyển dịch: 2 vụ lúa (lúa đông xuân – hè thu); 1 vụ lúa + nuôi trồng thủy sản (lúa mùa – tôm cá); 1 vụ lúa + 1 vụ mùa (lúa mùa – rau màu); chuyên màu (bắp, đậu tương, mía, đậu đỗ…); trồng rừng ngập mặn kết hợp nuôi cá.

+ Đối với khu vực bị nhiễm mặn nặng có thể chuyển diện tích lúa, hoa màu sang quy hoạch thành các vùng nuôi tôm chuyên canh, đặc biệt là các khu vực ven biển.

3.3.2.3. Giải pháp chuyển đổi cơ cấu mùa vụ


- Vụ mùa cần xuống giống sớm nhằm né mặn cuối vụ.


- Vụ Hè Thu cần gieo trồng muộn nhằm né mặn, chủ yếu tại các xã giáp

biển.

3.3.2.4. Giải pháp luân canh trên đất canh tác lúa


Sản xuất vụ Đông - Xuân ở Gò Công Đông bị ảnh hưởng không nhiều, tình trạng xâm nhập mặn chỉ ảnh hưởng trực tiếp và mạnh đến vụ lúa Xuân - Hè.

- 2 lúa + 1 màu: Lúa đông xuân - màu xuân hè - lúa mùa; Ngô đông xuân - lúa hè thu - lúa mùa.

- 1 lúa + 2 màu: Màu đông xuân - màu hè thu - lúa mùa.

- 1 lúa + 1 màu: Lúa đông xuân - màu hè thu; Màu đông xuân - lúa mùa; Lúa mùa - màu hè thu.

- 1 lúa + 1 thuỷ sản: Lúa mùa - cá hoặc tôm càng xanh.


3.3.2.5. Lịch thời vụ gieo trồng đối với từng tiểu vùng


- Vùng bị ảnh hưởng của ngập lũ: Vụ Đông Xuân gieo trồng lúa phải chủ động bằng cách tiền hành cày ngâm lũ, trước khi lũ rút còn 30 cm thì cần bơm nước ra, san phẳng mặt ruộng và tiến hành gieo sạ nhằm tranh thủ lượng nước còn dồi dào. Kết thúc thời vụ gieo trồng dựa vào mức độ kiểm soát lũ của bờ bao, nói chung nước lũ lên 50 cm so với mặt ruộng là không an toàn cho cây trồng. Do vậy, thời gian canh tác an toàn đối với cây trồng trong vùng lũ được bắt đầu từ khi lũ rút còn 30 cm đến khi nước lũ về ngập 50 cm so với mặt ruộng (nhưng phải có bờ bao kiểm soát lũ).

- Vùng ảnh hưởng chịu mặn: thời gian đảm bảo hệ thống canh tác an toàn bắt đầu từ khi có độ mặn 2%0 - 4%0 buộc phải hoàn thành thu hoạch cây trồng và tính ngược lại, thời gian nước có độ mặn 2%0 - 4%0 là không an toàn. Do vậy, ở vùng này nông dân phải gieo vùi đối với lúa Hè Thu hoặc gieo mạ để cấy rút ngắn thời gian sinh trưởng của cây lúa. Ngoài ra nên chọn các giống có khả năng chịu mặn.

- Vùng ngập úng: nên chọn hệ thống canh tác lúa kết hợp nuôi trồng thủy sản nước ngọt, sử dụng giống lúa cứng cây, ít đổ ngã, kết hợp khai thác lợi thế về nguồn nước ngọt dồi dào tiến hành nuôi cá đồng tăng thêm giá trị sản lượng và thu nhập.

- Tiểu vùng giáp biển: một số nơi đã được ngọt hóa, song do ở cuối nguồn nước ngọt lại kế cận khu vực đưa mặn vào nuôi tôm nước lợ nên phải phân ranh

Xem tất cả 118 trang.

Ngày đăng: 14/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí