Sau Khi Bị Bắt Hoặc Nhận Người Bị Bắt, Cơ Quan Điều Tra Phải Lấy Lời Khai Ngay Và Trong Thời Hạn 24 Giờ Phải Ra Quyết Định Tạm Giữ Hoặc Trả Tự Do

trong trường hợp phạm tội quả tang chưa phải là bị can, bị cáo; còn người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã là người đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hay đang chấp hành án phạt tù thì bỏ trốn mà cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định truy nã. Về những việc cần làm ngay sau thi bắt hoặc nhận người bị bắt, đối với người bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang họ có thể bị giam giữ hoặc không bị giam giữ theo Điều 86 Bộ luật TTHS năm 2003; còn người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã thì sau khi bị bắt, Cơ quan điều tra có thẩm quyền phải áp dụng biện pháp tạm giữ hoặc tạm giam đối với họ. Chúng tôi cho rằng nên tách hai trường hợp bắt người này ra và quy định thành hai điều luật riêng độc lập. Đồng thời về trình tự thủ tục khi bắt người phạm tội quả tang cũng sắp xếp lại và chỉ cần ghi nhận thành nội dung của điều, không cần phải tách thành khoản 1 và khoản 2 như Điều 82 hiện nay. Xét về mặt thời gian của việc bắt người phạm tội quả tang thì: khi bất kỳ người nào có quyền bắt và tiến hành ngay việc tước vũ khí, hung khí nếu có của người phạm tội. Thực tế, những trường hợp bắt phạm tội quả tang, người bắt giữ phải có khả năng bắt và khống chế được người phạm tội. Việc khống chế đó phải tiến hành đồng thời với việc tịch thu vũ khí, hung khí của người phạm tội. Khống chế và bắt được người phạm tội thì người có quyền bắt được người phạm tội đó phải giải trực tiếp đến các cơ quan có thẩm quyền, chứ không được giao cho người khác.

Thứ hai, hiện tại vấn đề “những việc cần phải làm khi bắt hoặc nhận người bị bắt” được quy định chung trong một điều luật là Điều 83 Bộ luật TTHS. Bởi vậy, chúng ta nên tách những việc cần phải làm khi bắt hoặc nhận người bị bắt thành những điều luật độc lập đối với từng trường hợp bắt người. Tại Điều 82 Bộ luật TTHS, nhà làm luật mới quy định về thẩm quyền bắt người và thủ tục bắt người đối với người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã mà chưa thể hiện nội dung về những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt. Vấn đề ấy lại được thể hiện trong Điều 83 như sau: khoản 1 quy định những vấn đề cần phải làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp khẩn cấp hoặc phạm tội

quả tang; khoản 2 quy định những việc cần phải làm sau khi tiếp nhận người bị bắt trong trường hợp đang bị truy nã. Thiết nghĩ, kết hợp với phương hướng đã nêu ở vấn đề ở trên, nên bỏ Điều 83 rồi quy định ba trường hợp bắt người là bắt người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người phạm tội quả tang và bắt người trong trường hợp truy nã thành ba điều luật riêng và thể hiện đầu đủ ba nội dung: căn cứ áp dụng, thẩm quyền và thủ tục bắt, những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc nhận người bị bắt. Việc làm này sẽ đảm bảo tính khoa học hơn, tạo nên sự rõ ràng và dễ áp dụng vào thực tiễn với mỗi trường hợp.

Thứ ba, cần xem xét lại quy định về những việc được làm trong khi tiến hành bắt người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã. Khoản 2 Điều 82 Bộ luật TTHS quy định như sau: “khi bắt người phạm tội quả tang hoặc người đang bị truy nã thì người nào cũng có quyền tước vũ khí, hung khí của người bị bắt”. Xét trên thực tế, nhiều trường hợp người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thường có vũ khí và rất dễ chống trả ngay nếu bị bắt giữ, đặc biệt là có thể họ cất dấu trong người (như dao, súng, bom mìn, thuốc nổ,…). Nếu không quy định quyền của người bắt được thực hiện một cách chính xác, chặt chẽ thì rất khó khuyến khích quần chúng nhân dân tích cực tham gia công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm. Chúng tôi cho rằng cần quy định thêm nội dung là khi bắt người người phạm tội quả tang hoặc đang bị truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền lục soát người bị bắt để tước những công cụ, phương tiện có thể được dùng để chống trả lại người bắt, để phân biệt với biện pháp khám người theo quy định tại Điều 182 Bộ luật TTHS 2003. Tuy nhiên, chúng ta cũng phải quy định một một cách chặt chẽ, chi tiết những việc được phép làm khi bắt giữ người trong trường hợp phạm tội quả tang để vi phạm về quyền bất khả xâm phạm về thân thể theo Điều 71 Hiến pháp Việt Nam năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2001) đã quy định: “Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện kiểm sát nhân dân, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc

bắt và giam giữ người phải đúng pháp luật”. Quy định này nhằm khuyến khích quần chúng nhân dân tích cực tham gia công tác đấu tranh phòng và chống tội phạm.

Bởi những căn cứ trên, nhằm đảm bảo tính chặt chẽ, rõ ràng cũng như đảm bảo tính hợp lý liên tục về thời gian của điều luật, chúng tôi cho rằng Điều 82 và Điều 83 Bộ luật TTHS năm 2003 nên được sửa đổi, bổ sung như sau:

Điều 82a. Bắt người phạm tội quả tang

1. Đối với người đang thực hiện tội phạm hoặc ngay sau khi thực hiện tội phạm thì bị phát hiện hoặc bị đuổi bắt thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và tước vũ khí, hung khí của người bị bắt đang sử dụng và lục soát người bị bắt để tước những công cụ, phương tiện khác mà người bị bắt có thể dùng để chống trả; sau đó giải ngay đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền.

2. Sau khi bị bắt hoặc nhận người bị bắt, cơ quan điều tra phải lấy lời khai ngay và trong thời hạn 24 giờ phải ra quyết định tạm giữ hoặc trả tự do cho người bị bắt.

Điều 82b. Bắt người đang bị truy nã

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.

1. Đối với những người đang bị truy nã là người đã có lệnh bắt hoặc đã bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam hay đang chấp hành án phạt tù thì bỏ trốn mà cơ quan có thẩm quyền đã ra quyết định truy nã thì bất kỳ người nào cũng có quyền bắt và tước vũ khí, hung khí của người bị bắt đang sử dụng và lục soát người bị bắt để tước những công cụ, phương tiện khác mà người bị bắt có thể dùng để chống trả; sau đó giải ngay đến cơ quan công an, Viện kiểm sát hoặc Ủy ban nhân dân nơi gần nhất. Các cơ quan này phải lập biên bản và giải ngay người bị bắt đến cơ quan điều tra có thẩm quyền.

2. Đối với người bị truy nã thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để đến nhận người bị bắt.

Biện pháp ngăn chặn bắt người phạm tội quả tang trong luật Tố Tụng hình sự Việt Nam - 11

Sau khi nhận người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải ra ngay quyết định đình nã. Trong trường hợp xét thấy cơ quan đã ra quyết định truy nã không thể đến nhận ngay người bị bắt thì sau khi lấy lời khai, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải ra ngay quyết định tạm giữ và thông báo ngay cho cơ quan đã ra quyết định truy nã biết. Sau khi nhận được thông báo, cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam đã được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn cho Cơ quan điều tra nhận người bị bắt.

Sau khi nhận được lệnh tạm giam, Cơ quan điều tra nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người đó đến trại tạm giam nơi gần nhất.”

Thứ tư, bổ sung thêm quy định tại Điều 84 Bộ luật TTHS năm 2003. Khoản 1 Điều 84 Biên bản về việc bắt người quy định: Người thi hành lệnh bắt trong mọi trường hợp đều phải lập biên bản. Biên bản phải ghi rõ ngày giờ tháng năm, địa điểm bắt, nơi lập biên bản; những việc đã làm, tình hình diễn biến trong khi thi hành lệnh bắt, những đồ vật, tài liệu bị tạm giữ và những khiếu nại của người bị bắt. Biên bản phải được đọc cho người bị bắt và những người chứng kiến nghe. Người bị bắt, người thi hành lệnh bắt và người chứng kiến phải cùng ký tên vào biên bản, nếu ai có ý kiến khác hoặc không đồng ý với nội dung biên bản thì có quyền ghi vào biên bản và ký tên. Việc tạm giữ đồ vật, tài liệu của người bị bắt phải được tiến hành theo quy định của bộ luật này. Khoản 2 quy định: Khi giao và nhận người bị bắt, hai bên giao và nhận phải lập biên bản. Ngoài những điểm quy định tại khoản 1 Điều 84, biên bản giao nhận còn phải ghi rõ việc bàn giao các biên bản lấy lời khai, đồ vật, tài liệu đã thu thập được, tình trạng, sức khỏe của người bị bắt và mọi tình tiết xảy ra lúc giao nhận. Với những quy định như vậy, luật đã liệt kê tương đối đầy đủ các điều kiện, nội dung, yêu cầu...của biên bản. Tuy vậy đây mới chỉ là điều kiện cần mà còn thiếu điều kiện đủ; Luật mới chỉ đề ra các quy định nhìn từ góc độ bảo đảm các quyền của Nhà nước mà chưa xem xét từ góc độ bảo đảm quyền của người bị bắt. Do đó biên bản về việc bắt người cần bổ sung thêm “biên bản cần được lập làm hai bản và người

bị bắt phải được giao một bản” để nhằm tránh sự thất lạc, mất mát, tùy tiện của chủ thể tiến hành tố tụng và thể hiện sự tôn trọng người bị bắt [72].

Thứ năm, hoàn thiện quy định tại Điều 85 Bộ luật TTHS năm 2003. Điều 85 Thông báo về việc bắt quy định: Người ra lệnh bắt, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay cho gia đình người bị bắt, chính quyền phường, thị trấn, hoặc cơ quan tổ chức nơi người đó cư trú hoặc làm việc biết. Nếu thông báo cản trở việc điều tra thì sau khi cản trở đó không còn nữa, người ra lệnh bắt, cơ quan điều tra nhận người bị bắt phải thông báo ngay. Để đảm bảo quy định pháp luật được rõ ràng, thuận tiện cho việc áp dụng và bảo đảm được quyền của người bị bắt, Luật cần quy định rõ hơn trường hợp nào bị coi là cản trở việc điều tra, trường hợp nào không cản trở điều tra để thông báo theo quy định pháp luật về việc bắt người đối với gia đình người bị bắt [72].

Thứ năm, bổ sung những quy định về bắt người phạm tội quả tang đối với các đối tượng đặc biệt trong bộ luật TTHS Việt Nam.

Đối với những trường hợp người phạm tội là đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân có hành vi phạm tội như sau: Trên cơ sở Điều 99 Hiến pháp năm 1992, việc bắt phạm tội quả tang này quy định như sau: “Không có sự đồng ý của Quốc hội và trong thời gian Quốc hội không họp, không có sự đồng ý của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, thì không được bắt giam, truy tố đại biểu Quốc hội. Nếu vì phạm tội quả tang mà đại biểu Quốc hội bị tạm giữ, thì cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo để Quốc hội hoặc Ủy ban thường vụ Quốc hội xét và quyết định”. Trong Bộ luật TTHS năm 2003 không có quy định “bắt giam” và nội dung “cơ quan tạm giữ phải lập tức báo cáo…” trong văn bản pháp luật cao nhất nói trên là không chuẩn xác. Bởi vì, cơ quan tạm giữ là bộ phận quản lý nhà tạm giữ hoặc ban giám thị trại tạm giam. Các đơn vị đó chỉ nhận được 01 quyết định tạm giữ để quản lý đối tượng mà không biết được những gì đã xảy ra như: hành vi phạm tội quả tang, các thủ tục tố tụng đã thực hiện đối với người bị tạm giữ. Chỉ có cơ quan điều tra là biết rõ nhất các vấn đề trên. Ta thấy, có sự không thống nhất giữ các quy định tại Điều 99 của Hiến pháp năm 1992 và chương VI

bộ luật TTHS năm 2003.

Tiếp đó, tại điều 44 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân ban hành ngày 23/11/2003 quy định: “Trong thời gian Hội đồng nhân dân họp, nếu không được sự đồng ý của Chủ tọa kỳ họp thì không được bắt giữ đại biểu Hội đồng nhân dân. Nếu vì phạm tội quả tang hoặc trong trường hợp khẩn cấp mà đại biểu Hội đồng nhân dân bị tạm giữ thì cơ quan ra lệnh tạm giữ phải báo cáo ngay với Chủ tọa kỳ họp. Giữa hai kỳ họp Hội đồng nhân dân, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền ra lệnh tạm giữ đại biểu Hội đồng nhân dân thì phải thông báo cho Chủ tịch Hội đồng nhân dân cùng cấp” [29, tr.84].

Bắt người phạm tội có yếu tố nước ngoài: Khoản 4 Điều 27 Pháp lệnh ngày 07/9/1993 về quyền ưu đãi, quyền miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự đại diện của các tổ chức quốc tế tại Việt Nam quy định: “Trong trường hợp bắt, tạm giữ, tạm giam hoặc truy tố một thành viên của cơ quan lãnh sự, cơ quan Nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam phải thông báo cho người đứng đầu cơ quan lãnh sự biết. Nếu biện pháp như vậy được áp dụng đối với người đứng đầu cơ quan lãnh sự, thì Bộ Ngoại giao Việt Nam phải thông báo cho nước cử lãnh sự biết”.

Các điều luật về bắt người theo Điều 82 Bộ luật TTHS năm 2003 và các văn bản pháp luật khác của Việt Nam đều không quy định cụ thể thời gian thi hành bắt người là bao nhiêu? Có thể được xác định được thời gian bắt đầu của nó là khi Điều tra viên đọc lệnh bắt và thời điểm kết thúc là khi cơ quan điều tra nhận người bị bắt theo Điều 87 Bộ luật TTHS năm 2003. Trong thời gian của việc bắt người còn phụ thuộc vào các điều kiện khác như: khoảng cách địa lý giữa nơi bắt và nơi nhận bàn giao, các phương tiện dẫn giải hoặc công vụ đang thực hiện. Ví dụ như: hành vi phạm tội quả tang ở hải đảo, biên giới, sau đó chuyển tới cho cơ quan điều tra có thẩm quyền hoặc bắt người phạm tội quả tang trên tàu bay, tàu biển khi tàu bay, tàu biển hoạt động ngoài không phận, ngoài Việt Nam, thì phải cần có một khoảng thời gian nhất định cho người phạm tội ở lại sân bay, bến cảng đầu tiên trên đất nước Việt Nam … Sau đó, mới thực hiện được việc bàn

giao. Như vậy, thời gian bắt người trong trường hợp quả tang trên là không xác định dễ dẫn đến việc hạn chế về quy định thời gian bắt giữ người phạm tội [44].‌‌

Đối với những trường hợp phạm bắt phạm tội quả tang do người nước ngoài thực hiện chúng tôi kiến nghị cần quy định rõ hơn thủ tục xử lý đối với người được hưởng quyền miễn trừ ngoại giao có phạm tội quả tang. Quy định rõ thẩm quyền của người được bắt, lập biên bản phạm tội quả tang, người thu giữ vật chứng, thủ tục tiến hành như nào? Bộ Công an cần ban hành một quy trình quy định về: việc tiếp nhận tin báo về tội phạm có yếu tố nước ngoài, thủ tục xử lý và giải quyết các nguồn tin trên cho đến khi kết thúc hồ sơ, chuyển vụ án tới Viện Kiểm sát để đề nghị truy tố. Cần có quy định riêng, nới rộng hơn về thời gian kiểm tra, xác minh nguồn tin về tội phạm do người nước ngoài thực hiện. Trong thời gian tới, cần bổ sung và hoàn thiện những quy định trên trong quá trình xử lý người nước ngoài bị bắt phạm tội quả tang sẽ tạo điều kiện thuận tiện cho việc áp dụng.

3.3. Một số giải pháp khác nâng cao hiệu quả công tác bắt người phạm tội quả tang trong thời gian tới ở Việt Nam

3.3.1. Tăng cường cơ chế phối hợp giữa các lực lượng trong công tác bắt người đang phạm tội quả tang

Thứ nhất là, tăng cường sự phối hợp giữa toàn dân và các cơ quan có thẩm quyền:

Toàn dân là lực lượng đông đảo tham gia bắt đối với tất cả những trường hợp phạm tội quả tang. Hoàn chỉnh cơ chế phối hợp giữa các lực lượng chuyên trách và lực lượng toàn dân sẽ đảm bảo cho việc đấu tranh chống và phòng ngừa đem lại hiệu quả tích cực nhất. Cơ chế phối hợp được thể hiện chặt chẽ trong các bước về trình tự thủ tục bắt và giao người bị bắt. Bắt phạm tội quả tang không cần có lệnh và được phép bắt vào ban đêm, nên khi bắt được đối tượng này các cơ quan công an, UBND địa phương, viện kiểm sát nơi gần nhất tích cực hỗ trợ và tiếp nhận theo đúng trình tự và lập biên bản bắt phạm tội quả tang kịp thời. Về cơ chế thực hiện Quốc hội cần bám sát thực tiễn cuộc sống, nắm bắt tâm tư

nguyện vọng của nhân dân, kịp thời thể chế hóa đường lối, chính sách của Đảng thành pháp luật để bảo vệ các giá trị nhân văn của con người. Tiếp nhận sự phản hồi từ các cơ quan thực thi pháp luật, các nhà nghiên cứu, ý kiến đóng góp của nhân dân để sửa đổi, bổ sung cho hệ thống pháp luật ngày một hoàn thiện đảm bảo tốt các quyền con người, quyền công dân. Tăng cường công tác giám sát đối với các cơ quan nhà nước đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng. HĐND cần thực hiện tốt chức năng giám sát và hoạt động chất vấn đối với các cơ quan tiến hành tố tụng tại địa phương để đảm bảo cho các cơ quan này hoạt động có hiệu quả, đúng pháp luật.

Thứ hai là, sự phối hợp giữa các lực lượng nghiệp vụ chuyên môn then chốt trong công tác bắt người phạm tội quả tang: Do sự tác động lớn của cơ chế nền kinh tế, các loại hình tội phạm ngày càng gia tăng và phát triển một cách tinh vi. Nhóm phạm tội trong trường hợp bắt quả tang thường mang tính nguy hiểm xâm hại nghiêm trọng tới khách thể, nhất là tội phạm ma túy. Nhóm tội phạm này thường lợi dụng địa hình hiểm trở ở các vùng biên giới, hải đảo, vùng núi xa xôi nên các cơ quan chuyên trách phải cử cán bộ hoặc thường xuyên đóng quân tại các vùng để tiếp nhận và xử lý theo đúng thời gian, trình tự của pháp luật. Những trường hợp bắt người phạm tội quả tang này chủ yếu do lực lượng công an và lực lượng bộ đội biên phòng, bởi vậy để đạt hiệu quả hai cơ quan chủ đạo trên thường xuyên phối hợp chặt chẽ dưới sự chỉ đạo của các bộ. Tăng cường mối quan hệ phối hợp chặt chẽ với các lực lượng công an theo đúng chỉ đạo của lãnh đạo Bộ Quốc phòng và Bộ Công an. Các đơn vị Bộ đội Biên phòng đã quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm các chỉ thị, nghị quyết của Chính phủ, Bộ Quốc phòng, Ban Chỉ đạo 138/CP về thực hiện Chương trình quốc gia phòng chống tội phạm; Kế hoạch 866/BCA (ĐA-3) ngày 15/6/2002 của Ban Chủ nhiệm Đề án 3 Bộ Công an đấu tranh phòng chống các loại tội phạm có tổ chức, tội phạm hình sự nguy hiểm và tội phạm có tính quốc tế ở khu vực biên giới, vùng biển - đảo. Chỉ đạo các cơ quan chức năng thường xuyên thông báo tình hình, trao đổi các vấn đề có liên quan với các lực lượng công an, phối hợp thực hiện các kế hoạch

Xem tất cả 113 trang.

Ngày đăng: 31/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí