truy nã chưa có kết quả, CQĐT cũng thông báo theo thời hạn đã được quy định để Toà án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử và xét xử vắng mặt bị cáo theo các quy định của BLTTHS…
- Công tác truy nã đã từng bước đi vào nề nếp, khoa học, việc quản lý hồ sơ, tài liệu được củng cố, đã áp dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý hồ sơ nên đảm bảo ít thất lạc, tra cứu nhanh chóng, chính xác; sự phối hợp giữa Công an các đơn vị, địa phương trong việc thực hiện công tác truy nã ngày càng chặt chẽ và tích cực nên đã nâng cao hiệu quả của công tác này, số đối tượng truy nã trốn ra địa phương khác bị bắt khá cao.
Công tác thanh loại đối tượng truy nã được thực hiện theo Kế hoach số 319/C11 ngày 17-4-1990 của Tổng cục Cảnh sát hướng dẫn về việc xem xét lại số đối tượng truy nã hiện nay đã đạt kết quả khả quan. Từ năm 2004 đến năm 2007, Công an các đơn vị, địa phương đã thường xuyên tập trung xác minh những đối tượng phạm tội ít nghiêm trọng, tuổi cao, mức án thấp, trốn đã lâu hoặc trốn đi nước ngoài đã định cư và sống ổn định để phối hợp với Toà án, VKS làm thủ tục thanh loại 774 đối tượng khỏi diện truy nã [42].
Lực lượng Cảnh sát bảo vệ trại giam, trại tạm giam, nhà tạm giữ đã thực hiện tốt công tác phòng ngừa, tăng cường công tác tuần tra, canh gác chặt chẽ để ngăn chặn phạm nhân trốn trại và kịp thời tổ chức lực lượng truy bắt theo dấu vết nóng nên đã giảm số vụ phạm nhân trốn trại, số trốn trại bị bắt lại trong thời gian ngắn và đạt tỷ lệ cao.
Công an các cấp đã thực hiện tốt công tác phát động phong trào quần chúng phát hiện, tố giác và truy bắt đối tượng truy nã. Công an nhiều đơn vị, địa phương đã làm tốt công tác tuyên truyền để các cấp, các ngành và quần chúng nhân dân hiểu và giúp đỡ lực lượng CAND trong phát hiện, truy bắt người phạm tội bỏ trốn bị truy nã. Thông qua việc phổ biến rộng rãi quyết định truy nã, lệnh truy nã cùng với nhiều hình thức vận động quần chúng phong phú như: vận động gia đình, người thân của đối tượng truy nã, vận động người có uy tín tại cộng đồng dân cư, phát động phong trào toàn dân
tham gia phòng, chống tội phạm… trong những năm qua, quần chúng nhân dân đã tích cực giúp lực lượng Công an thực hiện tốt công tác bắt người đang bị truy nã.
Công tác hợp tác quốc tế về truy nã tội phạm đã có nhiều chuyển biến tích cực, Văn phòng Interpol đã phối hợp với các đơn vị nghiệp vụ tiến hành rà soát số đối tượng truy nã quốc tế và trao đổi thông tin với Interpol, Aseanapol về số đối tượng truy nã của Việt Nam trốn ra nước ngoài và đối tượng truy nã nước ngoài trốn vào Việt Nam để chỉ đạo xác minh truy bắt.
Việc giao chỉ tiêu bắt truy nã cho Công an các đơn vị, địa phương đã đạt hiệu quả cao, Công an các đơn vị, địa phương đã chủ động, tích cực rà soát lại các đối tượng truy nã thuộc thẩm quyền truy bắt của mình, lập kế hoạch và xây dựng phương án xác minh, truy bắt. Công an nhiều đơn vị, địa phương đã bắt được số đối tượng truy nã vượt chỉ tiêu Bộ Công an giao.
Công tác vận động đối tượng truy nã ra tự thú được tiến hành theo quy định tại Thông tư liên ngành số 05/TTLN ngày 02-6-1990 của Bộ Nội vụ (nay là Bộ Công an), VKSNDTC, TANDTC, Bộ Tư pháp hướng dẫn thi hành chính sách đối với người phạm tội ra tự thú đạt được những kết quả đáng khích lệ. Công an các đơn vị, địa phương đã dùng nhiều biện pháp tác động tư tưởng, tuyên truyền chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước với gia đình và bản thân đối tượng nên trong thời gian qua, số đối tượng truy nã ra đầu thú tương đối cao. Trong bốn năm qua (từ năm 2004 đến 2007), lực lượng CAND đã phối hợp với các cơ quan chức năng, chính quyền các cấp và quần chúng nhân dân vận động được 4.494 đối tượng đầu thú [42].
- Theo quy định của PLTCĐTHS năm 2004, mô hình tổ chức của các CQĐT trong CAND có sự thay đổi, theo đó, công tác bắt truy nã cũng có sự thay đổi, nhưng Bộ Công an đã chủ động, kịp thời xây dựng, ban hành các văn bản hướng dẫn Công an các đơn vị, địa phương ổn định tổ chức, tiếp tục thực hiện tốt công tác truy nã, không để công tác này bị gián đoạn, trì trệ trong giai đoạn chuyển đổi mô hình tổ chức mới của cơ quan CSĐT các cấp.
Có thể bạn quan tâm!
- Các Quy Định Về Biện Pháp Ngăn Chặn Bắt Người Đang Bị Truy Nã Theo Pháp Luật Tố Tụng Hình Sự Hiện Hành (Sau Khi Có Bộ Luật Tố Tụng Hình Sự Năm
- Biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự Việt Nam - 6
- Thực Trạng Áp Dụng Các Quy Định Về Biện Pháp Ngăn Chặn Bắt Người Đang Bị Truy Nã Trong Thực Tiễn Điều Tra, Truy Tố, Xét Xử Ở Nước Ta
- Yêu Cầu Và Định Hướng Công Tác Bắt Người Đang Bị Truy Nã Ở Nước Ta Hiện Nay
- Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Công Tác Bắt Người Đang Bị Truy Nã Trong Giai Đoạn Hiện Nay
- Biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự Việt Nam - 11
Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.
Theo quy định của PLTCĐTHS năm 2004, công tác xác minh, truy bắt đối tượng truy nã bỏ trốn được giao cho lực lượng thụ lý án trực tiếp thực hiện, các lực lượng khác trong CAND tham gia phối hợp đã phát huy tác dụng nâng cao vai trò, trách nhiệm của cơ quan thụ lý, điều tra án, hạn chế tình trạng cơ quan được giao nhiệm vụ điều tra vụ án thường ra quyết định truy nã để khép kín hồ sơ hoặc làm căn cứ để tạm đình chỉ điều tra. Mặt khác, theo quy định trên, nhiệm vụ tổ chức xác minh, truy bắt đối tượng truy nã không thể giao khoán toàn bộ cho lực lượng Cảnh sát hình sự như quy định trước đây mà đòi hỏi các lực lượng thụ lý án đều phải có trách nhiệm về đối tượng truy nã của mình.
Bên cạnh đó, việc bỏ lệnh truy nã là một biện pháp cải cách về thủ tục tố tụng. Nếu như trước đây phải trải qua nhiều quá trình, công đoạn như: CQĐT ra quyết định truy nã, chuyển sang lực lượng Cảnh sát hình sự để ra lệnh truy nã thường phải mất ít nhất từ 5-7 ngày thì lệnh truy nã mới tới được tay của lực lượng trinh sát và gửi đến những nơi cần thiết đối với những trường hợp truy nã thường, còn đối với những trường hợp truy nã toàn quốc thì phải mất hàng tháng mới hoàn chỉnh được một lệnh truy nã; nhưng theo quy định bỏ lệnh truy nã, CQĐT các cấp có thẩm quyền ra quyết định truy nã theo hệ lực lượng mình phụ trách, xét về góc độ thời gian được tiến hành nhanh hơn nhiều, phục vụ kịp thời cho việc bắt đối tượng truy nã bỏ trốn. Đồng thời, trách nhiệm của điều tra viên thụ lý hồ sơ được nâng cao, tăng cường được tính chủ động và trách nhiệm trong công tác bắt truy nã, các lực lượng CSĐT đã chủ động xác minh truy bắt những đối tượng truy nã thuộc thẩm quyền điều tra của mình. Việc theo dõi, quản lý đối tượng truy nã theo hệ, lực lượng theo mô hình tổ chức CQĐT như quy định của PLTCĐTHS năm 2004 cũng mang tính khoa học và chính xác hơn, giúp cho việc tra cứu, thống kê báo cáo được nhanh chóng hơn, đảm bảo yêu cầu phục vụ kịp thời công tác chiến đấu.
- Kết quả bắt, vận động đầu thú và thanh loại đối tượng truy nã trong thời gian từ năm 2004 đến 2007 [42]:
Trong những năm qua, được sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo Công an các cấp, lực lượng CAND đã tập trung gắn công tác bắt người đang bị truy nã lẩn trốn với các chiến dịch tấn công, trấn áp tội phạm. Với tinh thần kiên quyết tấn công tội phạm, Công an các đơn vị, địa phương đã khẩn trương xây dựng các kế hoạch ngắn hạn và dài hạn, chủ động, sáng tạo, quyết tâm trong việc tổ chức thực hiện; đã tập trung lực lượng, kinh phí, phương tiện để xác minh, truy bắt, vận động các đối tượng đang bị truy nã lẩn trốn ra đầu thú… Kết quả thực hiện công tác này đã đạt được những kết quả đáng kích lệ, góp phần phục vụ nhiệm vụ giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội của lực lượng CAND, kết quả cụ thể như sau*:
Năm 2004
+ Tổng số đối tượng truy nã trong toàn quốc tính đến cuối năm 2003 là
17.215 đối tượng, trong đó có 3.839 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm.
+ Trong năm 2004 toàn quốc phát sinh 5.411 đối tượng truy nã, trong đó có 993 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm.
+ Năm 2004 toàn quốc còn 22.626 đối tượng truy nã, trong đó có 4.832 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm.
+ Năm 2004 toàn quốc bắt, vận động đầu thú và thanh loại được 5.857 tên, trong đó có 1.073 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm, cụ thể:
+) Bắt: 4.504 đối tượng;
+) Vận động đầu thú: 1.097 đối tượng;
+) Thanh loại: 256 đối tượng.
+ Đến cuối năm 2004 toàn quốc còn 16.769 đối tượng truy nã chưa bắt được, trong đó có 3.759 đối tượng nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm.
Năm 2005
+ Số đối tượng truy nã phát sinh trong năm 2005 là 5.375 đối tượng, trong đó có 1.351 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm.
* Đề nghị số liệu này không nên công bố
+ Năm 2005 toàn quốc còn 22.144 đối tượng truy nã chưa bắt được, trong đó có 5.110 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm
+ Năm 2005 toàn quốc bắt, vận động đầu thú, thanh loại được 4.926 tên, trong đó có 981 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm, cụ thể:
+) Bắt: 3.925 đối tượng;
+) Vận động đầu thú: 857 đối tượng;
+) Thanh loại: 144 đối tượng.
+ Đến cuối năm 2005 toàn quốc còn 17.218 đối tượng truy nã chưa bắt được, trong đó có 4.129 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm.
Năm 2006
+ Số đối tượng truy nã phát sinh trong năm 2006 là 7.385 đối tượng, trong đó có 1.650 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm.
+ Năm 2006 toàn quốc còn 24.603 đối tượng truy nã chưa bắt được, trong đó có 5.779 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm.
+ Năm 2006 toàn quốc bắt, vận động đầu thú, thanh loại được 7.510 đối tượng, trong đó có 1.619 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm, cụ thể:
+) Bắt: 6.121 đối tượng;
+) Vận động đầu thú: 1.175 đối tượng;
+) Thanh loại: 214 đối tượng.
+ Đến cuối năm 2006, toàn quốc còn 17.093 đối tượng truy nã chưa bắt được, trong đó có 4.160 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm.
Năm 2007
+ Số đối tượng truy nã phát sinh trong năm 2007 là 6.831 đối tượng, trong đó có 1.214 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm.
+ Năm 2007 toàn quốc còn 23.924 đối tượng truy nã chưa bắt được, trong đó có 5.374 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm.
+ Năm 2007 toàn quốc bắt, vận động đầu thú, thanh loại được 6.802 đối tượng, trong đó có 1.214 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm, cụ thể:
+) Bắt: 5.277 đối tượng;
+) Vận động đầu thú: 1.365 đối tượng;
+) Thanh loại: 160 đối tượng.
+ Đến cuối năm 2007 toàn quốc còn 17.122 đối tượng truy nã chưa bắt được, trong đó có 4.160 tên nguy hiểm và đặc biệt nguy hiểm.
Như vậy, trong 4 năm (từ năm 2004 đến năm 2007), thực hiện công tác bắt người phạm tội lẩn trốn đang bị truy nã, lực lượng CAND đã bắt được
25.095 đối tượng truy nã, trong đó bắt 19.827 đối tượng, vận động đầu thú
4.494 đối tượng, tiến hành các thủ tục thanh loại 774 đối tượng. Hiện nay, tuy số đối tượng truy nã chưa bắt được đang còn ở ngoài xã hội còn khá nhiều, số đối tượng truy nã phát sinh hàng năm vẫn còn cao nhưng với kết quả đạt được như trên đã thể hiện sự quyết tâm của các lực lượng chức năng trong việc tổ chức xác minh, truy bắt đối tượng truy nã. Kết quả này đã góp phần quan trọng trong việc kiềm chế sự gia tăng của tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội trong thời gian qua; phục vụ tốt công tác điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án hình sự.
2.2.2. Nhận xét về những hạn chế, bất cập
- Công an một số đơn vị, địa phương chưa thực hiện tốt việc hạn chế "đầu vào" đối tượng truy nã, đặc biệt là trong khâu điều tra phát hiện đối tượng chậm, để đối tượng bỏ trốn phải ra lệnh truy nã dẫn đến tình trạng số đối tượng truy nã hàng năm phát sinh gần bằng số đối tượng truy nã bị bắt, thậm chí có địa phương, số đối tượng truy nã phát sinh nhiều hơn số đối tượng truy nã bị bắt trong năm.
- Lực lượng tham gia công tác bắt người đang bị truy nã trong những năm vừa qua chủ yếu vẫn là lực lượng CSĐT tội phạm về trật tự, an toàn xã hội, tỷ lệ bắt đối tượng truy nã của các lực lượng khác trong CAND vẫn còn thấp.
- Việc tiến hành công tác bắt người đang bị truy nã trong thời gian qua có lúc, có nơi còn chưa thực hiện nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật, một số Công an địa phương khi ra quyết định truy nã đã không gửi cho Phòng
Cảnh sát hình sự để ra lệnh truy nã; ra quyết định truy nã thiếu các thông tin cần thiết nên gây ra những khó khăn cho việc xác minh, truy bắt đối tượng truy nã; có nơi việc ra quyết định truy nã còn nhằm để khép kín hồ sơ nên còn có trường hợp đơn vị ra quyết định truy nã không gửi cho Phòng Cảnh sát hình sự ra lệnh truy nã hoặc có gửi nhưng khi Phòng Cảnh sát hình sự trả lại và yêu cầu cung cấp thêm thông tin thì không thấy trả lời và không yêu cầu ra lệnh truy nã nữa.
- Việc quản lý hồ sơ, tài liệu tuy đã được cải tiến nhưng vẫn còn tình trạng để hồ sơ thất lạc, mất không có khả năng và biện pháp khắc phục, đã ảnh hưởng rất lớn tới công tác điều tra, truy tố, xét xử tội phạm.
Công tác thông tin báo cáo còn chậm, không đều, không đầy đủ nội dung; thậm chí có những địa phương còn không có báo cáo, ảnh hưởng rất nhiều đến công tác thống kê, đánh giá và chỉ đạo công tác truy nã.
- Sau khi PLTCĐTHS năm 2004 được ban hành, mặc dù Bộ Công an và Tổng cục Cảnh sát đã có nhiều văn bản hướng dẫn triển khai thực hiện những quy định mới về bắt người đang bị truy nã nhưng Công an một số đơn vị, địa phương còn chấp hành chưa nghiêm túc chỉ đạo của Bộ Công an, có địa phương chỉ bàn giao công việc, không bàn giao con người làm chuyên sâu về công tác truy nã ở lực lượng Cảnh sát hình sự nên những cán bộ mới chuyển sang làm công tác truy nã còn lúng túng, chưa quen việc, dẫn đến hiệu quả công tác còn hạn chế.
- Ban chỉ đạo thực hiện Kế hoạch 327/BCA(C14) của Công an một số địa phương hoạt động chưa tích cực, chưa bám sát vào tình hình thực tế của địa phương để đề ra kế hoạch và tổ chức lực lượng xác minh truy bắt cho phù hợp nên việc triển khai thực hiện công tác bắt người đang bị truy nã còn lúng túng, kết quả của công tác này chưa cao.
- Công tác phối hợp điều tra xử lý của lực lượng CSĐT các cấp vẫn còn hạn chế trong việc lập danh chỉ bản, xác minh lý lịch chưa sâu về nhân thân của các bị can. Có những đối tượng trốn truy nã tiếp tục phạm tội mới ở các
địa phương khác hoặc phạm tội mới bị truy tố, xét xử, đưa vào các trại giam mà vẫn không bị phát hiện, khi có yêu cầu tra cứu mới phát hiện đối tượng đang bị truy nã về tội khác. Điển hình là vụ tên Nguyễn Văn Long, trú tại quận Đống Đa, thành phố Hà Nội là đối tượng truy nã đặc biệt can tội giết người, trốn trại, đã đổi tên là Thắng vào thành phố Hồ Chí Minh lẩn trốn, năm 1994 đã gây tai nạn giao thông làm chết người, bị TAND thành phố Hồ Chí Minh xử 12 tháng tù giam. Sau khi thụ án xong lại về cư trú tại quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh mà không bị phát hiện [47, tr.43].
- Một số đối tượng truy nã khi bị bắt, Công an các đơn vị, địa phương đã bắt được đối tượng thông báo cho đơn vị thụ lý hoặc ra quyết định truy nã đến nhận nhưng vì nhiều lý do khác nhau, nên việc nhận người đã bị bắt theo quyết định truy nã rất chậm, đã gây khó khăn trong việc giam giữ của đơn vị bắt được đối tượng. Trong một thời gian dài, do các chưa có cơ sở pháp lý nên việc tạm giam đối tượng truy nã bị bắt gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng.
- Công tác quản lý hành chính về trật tự xã hội như công tác quản lý hộ khẩu, đăng ký quản lý tạm trú, tạm vắng còn hạn chế, chưa nắm chắc được di biến động của đối tượng nên việc phát hiện đối tượng truy nã còn hạn chế. Có trường hợp đối tượng truy nã trốn đến địa phương khác sinh sống và được tuyển vào cơ quan nhà nước giữ chức vụ như tên Hoàng Thế Đức can tội giết người, Công an thành phố Hà Nội ra lệnh truy nã, đã trốn vào thành phố Hồ Chí Minh xin vào làm việc và được bổ nhiệm Trưởng phòng thiết kế thuộc Bộ Giao thông vận tải; hoặc đối tượng truy nã là người nước ngoài sau khi tự sát mới biết là đối tượng truy nã quốc tế như đối tượng Kim Jang Soo, quốc tịch Hàn Quốc, trốn và sinh sống một thời gian dài tại thành phố Hồ Chí Minh [42].
- Việc tổ chức phân công và giao chỉ tiêu bắt đối tượng truy nã chưa cụ thể, rõ ràng cho từng lực lượng, cá nhân trong việc xác minh truy bắt đối tượng truy nã; nhận thức về vấn đề giao chỉ tiêu bắt đối tượng truy nã còn chưa đúng, Bộ Công an giao chỉ tiêu bắt đối tượng truy nã cho Công an các