Biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự Việt Nam - 11

hiện cho thấy, đây là một chủ trương lớn, đúng đắn của Đảng và nhà nước ta, việc áp dụng chính sách hình sự đối với người phạm tội ra tự thú đã mang lại kết quả to lớn, là một yếu tố quan trọng tác động đến tâm lý, tư tưởng của người phạm tội đang lẩn trốn, thúc đẩy họ quyết tâm không tiếp tục lẩn trốn, ra tự thú để hưởng sự khoan hồng của pháp luật. Việc người phạm tội lẩn trốn ra tự thú, tạo thuận lợi cho việc điều tra các vụ án của lực lượng CAND, giảm những chi phí do tìm kiếm, truy bắt đối tượng bỏ trốn, đồng thời, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục, cải tạo chính bản thân họ, sớm đưa họ trở lại cuộc sống lương thiện.

Thực hiện chính sách vận động người phạm tội lẩn trốn ra tự thú trong những năm qua đã phát huy được tác dụng tích cực, đạt được kết quả khả quan, đã vận động được nhiều người phạm tội lẩn trốn ra tự thú, người phạm tội ra tự thú ngày càng nhiều. Tuy nhiên, qua thực tiễn thi hành Thông tư liên ngành 05/TTLN, các quy định trong Thông tư này còn chung chung, chưa rõ ràng, cụ thể nên việc vận dụng ở Công an các đơn vị, địa phương có sự khác nhau do các quy định của Thông tư liên ngành số 05/TTLN còn có sự lẫn lộn giữa khái niệm "tự thú" và "đầu thú", mặc dù nội hàm của hai khái niệm này hoàn toàn khác nhau.

Về khái niệm “tự thú” và “đầu thú”, theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học Xã hội thì: “Tự thú là người phạm lỗi nói ra lỗi lầm của mình, còn đầu thú là ra hàng sau một thời gian trốn tránh” [45].

Theo Từ điển Bách khoa CAND Việt Nam thì:

+ “Tự thú là chủ động đến cơ quan pháp luật khai báo hành vi vi phạm pháp luật của mình khi chưa bị phát hiện. Tự thú là một trong những điều kiện để được hưởng khoan hồng” [44, tr.1225].

+ “Đầu thú là chủ động ra thú nhận, khai báo tội lỗi với cơ quan có thẩm quyền do hoang mang dao động, do có lệnh hay quyết định truy nã hoặc do đã nhận ra tội lỗi của mình sau một thời gian lẩn trốn. Người ra đầu thú được hưởng sự khoan hồng khi xét xử” [44, tr.441].

Như vậy, có thể thấy rằng động cơ của hai hành vi tự thú và đầu thú hoàn toàn khác nhau: tự thú là “là chủ động đến cơ quan pháp luật khai báo hành vi vi phạm pháp luật của mình khi chưa bị phát hiện”, có nghĩa là hành động tự thú xảy ra trước khi hành vi vi phạm pháp luật của người tự thú bị phát hiện, đây là hành vi hoàn toàn mang tính tự nguyện; còn đầu thú là “chủ động ra thú nhận, khai báo tội lỗi với cơ quan có thẩm quyền do hoang mang dao động, do có lệnh hay quyết định truy nã hoặc do đã nhận ra tội lỗi của mình sau một thời gian lẩn trốn”, có nghĩa là đối với người phạm tội lẩn trốn ra đầu thú là do lo sợ hoặc không còn có thể tiếp tục lẩn trốn được nữa mới ra đầu thú trước cơ quan có thẩm quyền mà không mang tính tự nguyện, tự giác của người phạm tội.

Như vậy, hành vi tự thú cần được các cơ quan có thẩm quyền ghi nhận và đánh giá cao hơn hành vi đầu thú, vì vậy, chính sách hình sự đối với những người phạm tội lẩn trốn ra tự thú và đầu thú cần có sự phân biệt, không nên đồng nhất hai hành vi này với nhau. Theo đó, cần sửa đổi Thông tư liên ngành số 05/TTLN theo hướng quy định cụ thể hơn chính sách hình sự đối với người phạm tội tự thú và đầu thú, cần phân biệt rõ là người phạm tội ra tự thú thì sẽ được hưởng khoan hồng như thế nào, người phạm tội ra đầu thú thì được hưởng khoan hồng như thế nào, trong đó, mức độ được hưởng sự khoan hồng của người phạm tội ra tự thú thì xứng đáng được hưởng cao hơn so với người phạm tội ra đầu thú. Có như vậy, mới thể hiện được chính sách nhân đạo, khoan hồng nhưng công bằng, xử lý đúng người, đúng tội, không làm oan người vô tội của Đảng, nhà nước ta; đồng thời, khuyến khích những người phạm tội biết hối hận, nhận ra lỗi lầm của mình và quay lại con đường chính nghĩa, khắc phục, sửa chữa những lỗi lầm đó, cải tạo để trở thành người có ích cho xã hội.

Đồng thời với việc sửa đổi Thông tư liên ngành số 05/TTLN, cần sớm ban hành văn bản quy định cụ thể về việc vận động người phạm tội lẩn trốn ra tự thú, trong đó nêu rõ trách nhiệm của các ngành, các cấp, các tổ chức và

toàn thể quần chúng nhân dân trong việc vận động người phạm tội lẩn trốn ra tự thú; mối quan hệ phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức nêu trên; các biện pháp, chế độ, chính sách khen thưởng, bồi dưỡng đối với những cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện tốt công tác này...

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.

- Về vấn đề thanh loại đối tượng truy nã:

Việc thanh loại đối tượng truy nã là một công việc có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác bắt người đang bị truy nã của lực lượng CAND, thanh loại đối tượng truy nã từ trước đến nay được thực hiện theo Kế hoạch số 319/C11 ngày 17-4-1990 của Tổng cục Cảnh sát hướng dẫn xem xét lại số đối tượng truy nã hiện nay. Theo Kế hoạch này, Công an các đơn vị, địa phương cần tiến hành thường xuyên công tác rà soát và phân loại đối tượng truy nã, sau khi tiến hành rà soát và phân loại đối tượng truy nã, phải tiến hành xác minh những người bị truy nã sai; những người bị truy nã nay do chuyển biến của tình hình mà hành vi phạm tội không còn nguy hiểm cho xã hội nữa; những người bị truy nã nhưng đã chết hoặc đến nay không còn đủ năng lực truy cứu trách nhiệm hình sự (như mắc bệnh tâm thần); những người bị truy nã không xác định rõ tên tuổi, địa chỉ, nhận dạng đặc điểm của đối tượng; những đối tượng truy nã mà hành vi phạm tội ít nghiêm trọng nhưng đã trốn đi nước ngoài và định cư ở nước ngoài, không có điều kiện bắt lại hoặc không cần thiết bắt lại để phối hợp với VKS, Toà án thực hiện thủ tục thanh loại khỏi diện đối tượng truy nã. Tuy nhiên, như đã phân tích ở trên, Kế hoạch số 319/C11 là văn bản mang tính chất nội bộ, chỉ có giá trị thực hiện trong ngành nên Công an đơn vị, địa phương nào tích cực thực hiện, có quan hệ công tác tốt với VKS, Toà án thì việc thanh loại đối tượng truy nã mới được tiến hành thường xuyên và đạt kết quả cao. Như vậy, cơ sở pháp lý của việc thanh loại đối tượng truy nã hiện nay chưa rõ ràng; chưa có sự thống nhất giữa các cơ quan Công an, Tòa án, VKS; việc thanh loại đối tượng truy nã cho đến nay vẫn thực hiện theo Kế hoạch số 319/C11 của Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an

Biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự Việt Nam - 11

(không phải là văn bản quy phạm pháp luật) mà chưa có văn bản nào có hiệu lực pháp lý cao hơn quy định về vấn đề này.

Để khắc phục bất cập này, cần thiết phải ban hành một văn bản quy phạm pháp luật (có thể là thông tư liên tịch Bộ Công an, VKSNDTC, TANDTC) hướng dẫn thực hiện thống nhất công tác thanh loại đối tượng truy nã, trong đó quy định rõ về những đối tượng thuộc diện thanh loại; trình tự, thủ tục thanh loại; trách nhiệm, quyền hạn của các cơ quan trong việc tổ chức thực hiện thanh loại đối tượng truy nã...

- Hoàn thiện tổ chức và hoạt động của các CQĐT hình sự

Thực hiện Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khoá XII (2007-2011) và năm 2008, thực hiện sự phân công của Chính phủ, Bộ Công an được giao chủ trì nghiên cứu, soạn thảo dự án Luật tổ chức CQĐT hình sự. Đây là một yêu cầu mang tính cấp thiết, nhằm hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của CQĐT hình sự trong thời gian tới. Tuy nhiên, trong thời gian đang xây dựng dự thảo Luật tổ chức CQĐT hình sự, cần thiết phải sửa đổi, bổ sung PLTCĐTHS năm 2004 (đã được sửa đổi, bổ sung Điều 9).

PLTCĐTHS năm 2004 đã quy định về chức năng, nhiệm vụ của các CQĐT và các cơ quan được giao thực hiện một số hoạt động điều tra trong CAND. Để thực hiện Luật phòng, chống tham nhũng, Bộ Công an đã thành lập Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng. Ngày 14-12-2006, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung Điều 9 của PLTCĐTHS năm 2004, trong đó quy định thẩm quyền điều tra của Cục CSĐT tội phạm về tham nhũng. Tuy nhiên, hiện nay một số đơn vị thuộc Bộ Công an được thành lập để đấu tranh phòng chống một số loại tội phạm mới nhưng lại chưa được quy định có thẩm quyền điều tra, như Cục Cảnh sát môi trường hiện nay chỉ có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, không có thẩm quyền điều tra, trong khi đó, thực tiễn thời gian vừa qua có rất nhiều vi phạm nghiêm trọng pháp luật môi trường như vi phạm của Công ty Vedan Việt Nam và Công ty Miwon…; điều này đã gây ra nhiều khó khăn và hạn chế hiệu quả của công

tác đấu tranh phòng chống tội phạm trong lực lượng CAND. Để thực hiện đúng, đầy đủ chức năng, nhiệm vụ đã được Đảng, nhà nước giao cho Bộ Công an, những đơn vị có chức năng đấu tranh phòng chống các loại tội phạm cụ thể cần được giao đầy đủ thẩm quyền điều tra; theo đó, cần tiếp tục nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung PLTCĐTHS năm 2004 theo hướng quy định thẩm quyền điều tra cho Cục Cảnh sát môi trường.

3.2.5. Tăng cường công tác hợp tác quốc tế trong thực hiện công tác bắt người đang bị truy nã

Trong thời gian gần đây, với xu hướng mở cửa, tăng cường hợp tác quốc tế, việc đi lại giữa các nước trên thế giới trở nên dễ dàng; bên cạnh đó, tình hình tội phạm mang tính chất quốc tế có chiều hướng gia tăng, xuất hiện nhiều tổ chức tội phạm xuyên quốc gia… vì vậy, số lượng người nước ngoài phạm tội trốn vào Việt Nam hoặc vào Việt Nam để thực hiện hành vi phạm tội, người Việt Nam phạm tội trốn ra nước ngoài ngày càng nhiều. Việc tổ chức xác minh, truy bắt một đối tượng phạm tội ở trong nước đã gặp rất nhiều khó khăn, tốn kém về cả công sức và kinh phí, thì việc tổ chức truy bắt đối tượng phạm tội bỏ trốn ra nước ngoài càng gặp quá nhiều khó khăn hơn do đi lại tốn kém, thủ tục đi ra nước ngoài còn chưa được giải quyết nhanh chóng, công tác xác minh đối tượng có nhiều bất lợi, sự phối hợp với các cơ quan có chức năng của nước ngoài trong việc truy bắt đối tượng truy nã còn chưa tốt… Trước tình hình như vậy, Nhà nước ta cần tăng cường hơn nữa hợp tác quốc tế trong lĩnh vực hình sự nói chung, trong thực hiện công tác bắt người đang bị truy nã nói riêng.

Hiện nay, việc phối hợp giữa các quốc gia trong việc tổ chức xác minh, truy bắt các đối tượng truy nã quốc tế đã được tiến hành thường xuyên và đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, ở nước ta việc phối hợp với các nước trong việc truy nã tội phạm còn gặp nhiều khó khăn. Cơ sở pháp lý cho việc truy bắt đối tượng truy nã là người Việt Nam trốn ra nước ngoài cũng như bắt giữ người nước ngoài phạm tội trốn vào Việt Nam còn chưa đầy đủ,

năm 2008, Quốc hội khoá XII đã thông qua Luật tương trợ tư pháp, trong đó có một chương về dẫn độ nhưng các quy định còn chung chung, khó thực hiện, chưa có văn bản hướng dẫn; Nhà nước ta đã ký kết một số hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự, Hiệp định tương trợ tư pháp về dẫn độ tội phạm với các nước trên thế giới nhưng vẫn còn nhiều trường hợp chưa có hiệp định nên việc truy bắt đối tượng truy nã còn nhiều khó khăn… Vì vậy, để tăng cường hợp tác quốc tế về thực hiện công tác bắt người đang bị truy nã, Nhà nước cần ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật làm cơ sở pháp lý cho việc thực hiện công tác này, đặc biệt là các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật tương trợ tư pháp năm 2008. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đàm phán, ký kết với nhiều quốc gia trên thế giới hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự và dẫn độ tội phạm; cần phải tổ chức phối hợp tốt với các tổ chức quốc tế như Interpol, Aseanpol… trong việc trao đổi, xác minh thông tin và bắt giữ đối tượng truy nã quốc tế; thực hiện chặt chẽ công tác kiểm tra xuất cảnh, nhập cảnh để kịp thời phát hiện, bắt giữ những đối tượng phạm tội bỏ trốn ra nước ngoài hoặc người nước ngoài phạm tội trốn vào Việt Nam; tăng cường ngân sách nhà nước hỗ trợ cho công tác này.

3.2.6. Thực hiện tốt công tác phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc

Trên cơ sở Hiến định mọi công dân đều có nghĩa vụ bảo vệ an ninh quốc gia, đảm bảo trật tự, an toàn xã hội; thực hiện chức năng, nhiệm vụ của mình, lực lượng CAND đã thực hiện tốt công tác vận động quần chúng tham gia giữ gìn trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng chống tội phạm. Trong những năm qua, được sự giúp đỡ nhiệt tình của quần chúng nhân dân, lực lượng Công an đã phát hiện nhiều vụ phạm tội, bắt giữ nhiều đối tượng phạm tội và phạm tội bỏ trốn. Tuy nhiên, một số bộ phận quần chúng còn thờ ơ, sợ bọn tội phạm trả thù, né tránh những đối tượng phạm tội, chưa thực sự giúp đỡ lực lượng Công an trong đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung, bắt người đang bị truy nã nói riêng. Trước tình hình hiện nay còn rất nhiều đối tượng phạm tội bỏ trốn

bị truy nã đang lẩn trốn ngoài xã hội, lực lượng Công an cần thực hiện tốt hơn nữa công tác phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc.

Để quần chúng, nhân dân thực sự yên tâm khi giúp đỡ, tham gia bắt giữ đối tượng đang bị truy nã, Nhà nước cần ban hành văn bản quy định cụ thể về chính sách động viên đối với quần chúng nhân dân tham gia truy bắt đối tượng đang bị truy nã, trong đó quy định cụ thể về trách nhiệm bảo vệ người cung cấp thông tin về đối tượng đang bị truy nã, tham gia bắt đối tượng đang bị truy nã; quy định chế độ khen thưởng cả về vật chất và tinh thần đối với họ. Bên cạnh đó, lực lượng Công an cần có kế hoạch phù hợp để phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc ở địa bàn mình quản lý, đối với Công an các địa phương có địa bàn rừng núi, vùng sâu, vùng xa và đồng bào dân tộc vẫn còn những phong tục tập quán lạc hậu, khó khăn trong việc phát động phong trào quần chúng, cần phân công cán bộ Công an thông thạo tiếng dân tộc, thông qua đội ngũ già làng, trưởng bản và những người có uy tín để vận động quần chúng là đồng bào dân tộc tích cực tham gia phát hiện truy bắt đối tượng truy nã. Thông qua các phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc để đẩy mạnh công tác tuyên truyền và thông báo đối tượng truy nã trên các phương tiện thông tin đại chúng để phát huy sức mạnh tổng hợp của quần chúng nhân dân trong việc tham gia tố giác tội phạm và truy bắt, vận động đối tượng truy nã ra đầu thú.

KẾT LUẬN


Biện pháp bắt người đang bị truy nã trong TTHS là một trong những biện pháp ngăn chặn được quy định trong BLTTHS và các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành. Đây cũng là một biện pháp công tác của lực lượng CAND nhằm truy bắt những đối tượng phạm tội bỏ trốn để phục vụ cho công tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự. Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả của việc áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong thực tiễn, trong phạm vi nghiên cứu của một luận văn, kết quả của luận văn đã đạt được như sau:

1. Nghiên cứu dưới góc độ lý luận, đi sâu phân tích và làm rõ khái niệm, các đặc điểm, yêu cầu, nguyên tắc, cơ sở pháp lý của công tác bắt người đang bị truy nã.

2. Phân tích thực trạng các quy định của pháp luật TTHS về công tác bắt người đang bị truy nã qua các thời kỳ khác nhau, trong đó có so sánh, đánh giá về các quy định này cũng như đã đưa ra những nhận xét về thực trạng các quy định của pháp luật TTHS về công tác bắt người đang bị truy nã.

3. Phân tích thực trạng áp dụng biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong TTHS, đã đánh giá và đưa ra các nhận xét về ưu điểm, những hạn chế của công tác bắt người đang bị truy nã ở Việt Nam trong thời gian qua; qua đó, luận giải về nguyên nhân của những hạn chế trong việc thực hiện các quy định của pháp luật về bắt người đang bị truy nã trong TTHS.

4. Trên cơ sở kết quả nghiên cứu về lý luận và thực trạng các quy định của pháp luật cũng như thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về công tác bắt người đang bị truy nã, luận văn đã dự báo tình hình công tác bắt người đang bị truy nã trong thời gian tới, đã đưa ra một số yêu cầu, định hướng và đề xuất một số giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả công tác bắt người đang bị truy nã trong thời gian tới, trong đó, đưa ra giải pháp về tổ chức

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 31/10/2023