Biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự Việt Nam - 6

Như vậy, BLTTHS năm 2003 đã có nhiều quy định mới về biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã, khắc phục được những hạn chế, bất cập trong các quy định về bắt người đang bị truy nã của BLTTHS năm 1988, tạo điều kiện thuận lợi cho các cơ quan bảo vệ pháp luật thực hiện tốt nhiệm vụ trong công cuộc đấu tranh ngăn ngừa, phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.

Ngày 20-8-2004, Uỷ ban thường vụ Quốc hội đã thông qua PLTCĐTHS năm 2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 01-10-2004 và thay thế PLTCĐTHS năm 1988. PLTCĐTHS năm 2004 được ban hành nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới tổ chức và hoạt động của các cơ quan tư pháp nói chung, CQĐT nói riêng, đảm bảo sự đồng bộ, phù hợp với các văn bản pháp luật mới ban hành như BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003… Điều 3 PLTCĐTHS năm 2004 quy định nhiệm vụ của CQĐT: "CQĐT tiến hành điều tra tất cả các tội phạm, áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để xác định tội phạm và người đã thực hiện hành vi phạm tội, lập hồ sơ, đề nghị truy tố; tìm ra nguyên nhân, điều kiện phạm tội và yêu cầu các cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng các biện pháp khắc phục và ngăn ngừa" [14].

Triển khai thực hiện BLTTHS năm 2003, PLTCĐTHS năm 2004, liên ngành TANDTC, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đã ban hành một số thông tư liên tịch hướng dẫn việc thực hiện công tác truy nã người phạm tội lẩn trốn.

Ngày 07-9-2005, VKSNDTC, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng đã ban hành Thông tư liên tịch số 05/2005/TTLT-VKSNDTC-BCA-BQP về quan hệ phối hợp giữa CQĐT và VKS trong việc thực hiện một số quy định của Bộ luật TTHS năm 2003, tại điểm 4.2 quy định về những việc phải làm ngay sau khi nhận người bị bắt trong trường hợp truy nã thì: CQĐT nhận người bị bắt phải lấy lời khai, lập danh chỉ bản, chụp ảnh người bị bắt và gửi ngay thông báo kèm theo danh chỉ bản, ảnh của người đó cho cơ quan đã ra quyết định truy nã để đến nhận người bị bắt; trường hợp xét thấy cơ quan ra quyết định truy nã

không thể đến nhận ngay người bị bắt thì CQĐT nhận người bị bắt ra quyết định tạm giữ và gửi ngay quyết định tạm giữ cho VKS cùng cấp. Nếu cơ quan đã ra quyết định truy nã vẫn chưa đến nhận người bị bắt thì chậm nhất trước khi hết thời hạn tạm giữ 12 giờ, CQĐT nhận người bị bắt phải chuyển hồ sơ kèm theo công văn đề nghị VKS cùng cấp gia hạn tạm giữ đối với người bị bắt. Thời hạn gia hạn tạm giữ và việc xét phê chuẩn tạm giữ được thực hiện theo quy định tại khoản 2 Điều 87 của BLTTHS.

Điểm 4.3 quy định: sau khi nhận được thông báo kèm theo danh chỉ bản, ảnh của người bị bắt, cơ quan đã ra quyết định truy nã phải kiểm tra ngay để xác định đúng là người đang bị truy nã hay không, nếu xác định đúng thì đến ngay CQĐT nơi tiếp nhận người bị bắt truy nã để nhận người bị bắt; nếu không đúng phải thông báo lại ngay để CQĐT đang giữ người bị bắt trả tự do cho họ. Trường hợp không thể đến nhận ngay người bị bắt thì cơ quan đã ra quyết định truy nã có thẩm quyền bắt để tạm giam phải ra ngay lệnh tạm giam và gửi lệnh tạm giam kèm theo quyết định truy nã cho VKS cùng cấp để xét phê chuẩn; trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù trốn khỏi nơi giam thì giám thị trại giam ra quyết định truy nã, tiến hành các hoạt động điều tra ban đầu và chuyển hồ sơ cho CQĐT có thẩm quyền để thụ lý vụ án theo quy định tại Điều 23 của PLTCĐTHS. Thời hạn VKS xét phê chuẩn lệnh tạm giam đối với các trường hợp trên đây không được quá 24 giờ, kể từ khi nhận được đề nghị phê chuẩn để cơ quan ra quyết định truy nã kịp thời gửi lệnh tạm giam kèm theo quyết định phê chuẩn lệnh tạm giam đó cho CQĐT nhận người bị bắt.

Điểm 4.4 quy định: sau khi nhận được lệnh tạm giam đã được VKS phê chuẩn, CQĐT nhận người bị bắt có trách nhiệm giải ngay người bị bắt đến trại tạm giam nơi gần nhất [28].

Ngày 23-9-2004, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 12/2004/TT- BCA(V19) hướng dẫn thi hành một số quy định của PLTCĐTHS năm 2004 trong CAND. Thông tư đã quy định nhiệm vụ của Văn phòng Cơ quan CSĐT

Bộ Công an là: "Tổng hợp, theo dõi chung về công tác truy nã"; Văn phòng Cơ quan CSĐT cấp tỉnh có nhiệm vụ "Tổng hợp, theo dõi chung về công tác truy nã trên địa bàn cấp tỉnh"; đội điều tra tổng hợp Cơ quan CSĐT Công an cấp huyện có nhiệm vụ "Tổng hợp, theo dõi chung về công tác truy nã trên địa bàn cấp huyện" [30].

Triển khai thực hiện PLTCĐTHS năm 2004 trong khi Bộ Công an chưa ban hành Quy chế về công tác truy nã tội phạm, để kịp thời hướng dẫn Công an các đơn vị, địa phương thực hiện tốt công tác truy nã tội phạm theo mô hình tổ chức CQĐT mới theo quy định của PLTCĐTHS năm 2004, ngày 27- 10-2004, Tổng cục Cảnh sát - Bộ Công an đã có Công văn số 3246/C11(C16) hướng dẫn về công tác truy nã tội phạm. Công văn đã hướng dẫn cụ thể: “...Kể từ ngày 01-11-2004, đơn vị thụ lý án, trại giam chỉ ra quyết định truy nã (không ra lệnh truy nã như trước đây nữa). Việc ra quyết định truy nã theo thẩm quyền và trình tự đã được quy định tại mục c khoản 2 Điều 34, mục c khoản 2 Điều 36, khoản 3 Điều 49, khoản 3 Điều 50, Điều 161, mục b khoản

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 103 trang tài liệu này.

2 Điều 169, điểm 3 khoản 1 Điều 187, mục 4 Điều 256 và mục 4 Điều 260 BLTTHS năm 2003. Lực lượng nào trong quá trình thụ lý án mà có đối tượng bỏ trốn phải truy nã thì Thủ trưởng của lực lượng đó có quyền ra Quyết định truy nã và tổ chức lực lượng truy bắt...”. Công văn cũng đã hướng dẫn về việc thông báo công khai quyết định truy nã trên các phương tiện thông tin đại chúng để mọi người phát hiện, bắt giữ người bị truy nã, sau khi bắt được đối tượng truy nã, cơ quan, đơn vị đã ra quyết định truy nã phải nhanh chóng ra quyết định đình nã và phải gửi đến những nơi đã gửi quyết định truy nã; số đối tượng truy nã từ 01-10-2004 trở về trước thuộc thẩm quyền điều tra của hệ lực lượng nào thì lực lượng đó tiếp tục thụ lý và chịu trách nhiệm tổ chức xác minh truy bắt để kết thúc vụ án; việc ra quyết định truy nã quốc tế do Văn phòng Cơ quan CSĐT Bộ Công an trực tiếp phối hợp với Văn phòng Interpol Việt Nam thực hiện trên cơ sở yêu cầu truy nã quốc tế của Công an các đơn vị, địa phương; những đối tượng trốn trại giam thì giám thị trại giam có quyền

ra quyết định truy nã và tổ chức lực lượng truy bắt, những đối tượng trốn trại tạm giam thì giám thị trại tạm giam đề nghị Thủ trưởng Cơ quan CSĐT cùng cấp ra quyết định truy nã, nếu đối tượng trốn nhà tạm giữ của Công an cấp huyện thì Thủ trưởng CQĐT cấp huyện ra quyết định truy nã; các đối tượng trốn thi hành án, trốn trong khi dẫn giải, trốn do thay đổi biện pháp ngăn chặn hoặc các đối tượng do VKS, Tòa án yêu cầu truy nã theo Điều 169 và Điều 256 BLTTHS năm 2003 thì đối tượng thuộc hệ lực lượng nào, lực lượng đó có quyền ra quyết định truy nã và tổ chức truy bắt. Văn phòng Cơ quan CSĐT các cấp chịu trách nhiệm theo dõi, tổng hợp, kiểm tra, đôn đốc và quản lý toàn bộ số liệu thông tin, hồ sơ về công tác truy nã và số đối tượng truy nã trong các vụ án thuộc thẩm quyền điều tra của các lực lượng CSĐT Bộ Công an [8]. Tuy đây chỉ là văn bản hướng dẫn mang tính chất nội bộ trong lực lượng CAND nhưng Công văn số 3246/C11(C16) đã được ban hành kịp thời, đã giải quyết được những vướng mắc của Công an các đơn vị, địa phương trong việc triển khai thực hiện mô hình tổ chức CQĐT theo quy định của PLTCĐTHS năm 2004 và việc chuyển giao nhiệm vụ tổng hợp, quản lý toàn bộ công tác truy nã tội phạm từ Cục Cảnh sát hình sự trước đây sang Văn phòng Cơ quan

Biện pháp ngăn chặn bắt người đang bị truy nã trong tố tụng hình sự Việt Nam - 6

CSĐT Bộ Công an.

Ngày 12-11-2007, Bộ trưởng Bộ Công an đã ký ban hành Quyết định số 1385/2007/QĐ-BCA(C11) ban hành Quy chế về công tác truy nã. Quyết định này thay thế Quy định số 09/QĐ/BNV(C14) ngày 30-5-1986 về công tác truy nã tội phạm hình sự; Chỉ thị số 10/CT/BNV ngày 23-5-1986 về việc tổ chức truy bắt lại đối tượng trốn trại cải tạo, trại tạm giam, nhà tạm giữ; Quy định số 207/QĐ/BNV ngày 14-12-1990 về quy định bổ sung công tác truy nã tội phạm trong lực lượng CAND. Đây là văn bản quy phạm pháp luật cụ thể hoá các quy định của BLHS năm 1999, BLTTHS năm 2003, PLTCĐTHS năm 2004 và các thông tư liên tịch hướng dẫn thực hiện các quy định về công tác truy nã tội phạm, đã quy định thống nhất về công tác truy nã của lực lượng

CAND từ trước đến nay. Quyết định số 1385/2007/QĐ-BCA(C11) đã có các quy định cụ thể về công tác truy nã như sau:

+ Về đối tượng truy nã, gồm: bị can (người đã bị khởi tố về hình sự) bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu; bị cáo (người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử) bỏ trốn hoặc không biết đang ở đâu; người bị kết án (người đã bị Toà án kết án tù có thời hạn, tù chung thân hoặc tử hình đang chờ thi hành án

- có thể đang bị tạm giam hoặc cho tại ngoại) bỏ trốn; phạm nhân (người đang chấp hành bản án trong các trại giam, phân trại quản lý phạm nhân trong trại tạm giam và nhà tạm giữ) trốn trại.

+ Quyết định truy nã: quyết định truy nã là văn bản pháp lý trong hoạt động TTHS do cơ quan có thẩm quyền ban hành, được áp dụng đối với những đối tượng truy nã trên đây; trong thời hạn 24 giờ, kể từ khi xác định đối tượng bỏ trốn hoặc không xác định được đối tượng đang ở đâu, cơ quan có thẩm quyền có đối tượng bỏ trốn phải ra quyết định truy nã và nhanh chóng gửi đến cơ quan Công an các cấp nơi đối tượng có thể ẩn náu hoặc lẩn trốn để tổ chức truy bắt; đồng thời gửi cho VKSND cùng cấp, đơn vị điều tra các cấp theo hệ nghiệp vụ mỗi nơi một bản; Văn phòng CQĐT, Cơ quan hồ sơ nghiệp vụ cùng cấp mỗi nơi hai bản để theo dõi, chỉ đạo, quản lý, lưu giữ phục vụ công tác của ngành Công an; quyết định truy nã được thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết ở những nơi công cộng để mọi người biết, phát hiện, tố giác và bắt giữ đối tượng.

+ Phạm vi truy nã: truy nã trong phạm vi địa phương (áp dụng đối với những đối tượng xác định có khả năng lẩn trốn trong phạm vi một tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương); truy nã toàn quốc (áp dụng đối với những đối tượng xác định có khả năng lẩn trốn và có mối quan hệ ở nhiều tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và trên phạm vi cả nước), truy nã trong phạm vi địa phương có thể chuyển thành truy nã toàn quốc nếu trong quá trình điều tra xét thấy cần thiết hoặc ngược lại; truy nã quốc tế (áp dụng đối với những đối

tượng có tài liệu, căn cứ, xác định chính xác đối tượng đã trốn ra ngoài biên giới Việt Nam hoặc đang sinh sống ở nước ngoài).

+ Các hình thức truy nã: truy nã đặc biệt (áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng); truy nã thường (áp dụng đối với người thực hiện hành vi phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng). Truy nã thường có thể chuyển thành truy nã đặc biệt nếu trong quá trình điều tra xét thấy hành vi phạm tội của đối tượng có đủ yếu tố cần phải truy nã đặc biệt.

+ Điều kiện ra quyết định truy nã: khi đã xác định chính xác hành vi phạm tội hoặc mức án, họ, tên, tuổi, lý lịch, đặc điểm nhận dạng, các mối quan hệ của đối tượng và kèm theo ảnh (nếu có), danh bản, chỉ bản của đối tượng; khi đã tiến hành các biện pháp xác minh, truy bắt nhưng không có kết quả.

+ Trách nhiệm trong công tác truy nã: cơ quan, đơn vị điều tra nào có đối tượng bỏ trốn trong các vụ án thuộc thẩm quyền của mình thụ lý, được giao thụ lý hoặc theo yêu cầu của VKSND và TAND thì có quyền ra Quyết định truy nã và có trách nhiệm trực tiếp tổ chức lực lượng truy bắt; lực lượng Công an các cấp có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ với VKSND, TAND các cấp trong quá trình thực hiện công tác truy nã, đồng thời hướng dẫn các cơ quan, tổ chức và công dân tham gia phát hiện, tố giác, bắt giữ và vận động đối tượng truy nã ra đầu thú, góp phần đẩy mạnh công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm, giữ vững an ninh, trật tự tại các cơ quan, xí nghiệp và địa bàn dân cư.

+ Trình tự, thủ tục tiếp nhận thông tin và xử lý tin báo về đối tượng truy nã: khi nhận được tin báo phát hiện đối tượng truy nã thì bất cứ cán bộ, chiến sỹ hoặc đơn vị Công an nào cũng phải có trách nhiệm tiếp nhận ngay, chú ý xác minh kỹ nguồn tin và có biện pháp theo dõi, giám sát và xác định có đúng là đối tượng đang bị truy nã không, nếu không đủ điều kiện hoặc khả năng bắt

giữ thì báo cáo lãnh đạo xin lực lượng hỗ trợ hoặc phối hợp với các lực lượng khác, chính quyền địa phương, quần chúng nhân dân để tổ chức truy bắt.

+ Những việc cần làm ngay sau khi bắt hoặc tiếp nhận đối tượng truy nã:

+) Sau khi bắt được hoặc tiếp nhận đối tượng truy nã (kể cả đối tượng truy nã ra đầu thú) phải tiến hành ngay những việc đã được quy định tại khoản 2 Điều 83 BLTTHS năm 2003.

+) Nếu đối tượng trốn trại giam bị truy nã mà đầu thú thì giám thị trại giam phải tổ chức tiếp nhận, khám xét, lập biên bản lấy lời khai về việc bỏ trốn của đối tượng và làm các thủ tục cần thiết, đồng thời ra Quyết định đình nã.

+) Đối với đối tượng trốn trại tạm giam mà đầu thú thì giám thị trại tạm giam phải tổ chức tiếp nhận, lấy lời khai của đối tượng, làm các thủ tục giam, giữ cần thiết và báo cáo ngay bằng văn bản cho đơn vị đã ra Quyết định truy nã biết để ra Quyết định đình nã. Trường hợp đối tượng do giám thị trại tạm giam ra Quyết định truy nã thì giám thị trại tạm giam đó ra Quyết định đình nã.

+) Đối với đối tượng trốn nhà tạm giữ mà quay lại đầu thú thì trưởng nhà tạm giữ (hoặc người được giao phụ trách nhà tạm giữ) phải tiếp nhận, lấy lời khai của đối tượng, tiến hành các thủ tục giam giữ cần thiết và báo cáo ngay cho thủ trưởng CQĐT Công an cấp huyện đã ra Quyết định truy nã để ra Quyết định đình nã.

Khi đã bắt được đối tượng truy nã, cơ quan Công an nơi đã bắt giữ, tiếp nhận hoặc nơi đối tượng truy nã ra đầu thú thông báo cho cơ quan đã ra Quyết định truy nã biết. Sau khi nhận được thông báo này, cơ quan đã ra Quyết định truy nã phải tổ chức tiếp nhận đối tượng truy nã và ra ngay Quyết định đình nã trong thời hạn 48 giờ kể từ khi bắt được hoặc tiếp nhận đối tượng truy nã ra đầu thú, đồng thời gửi Quyết định đình nã đó đến những nơi đã gửi Quyết định truy nã, thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng và niêm yết ở những nơi công cộng để mọi người biết.

Trường hợp đối tượng truy nã trong quá trình lẩn trốn lại phạm tội mới và bị bắt giữ theo tội danh mới thì cơ quan thụ lý điều tra vụ án theo tội danh mới phải thông báo cho cơ quan đã ra Quyết định truy nã để ra Quyết định đình nã và phối hợp điều tra theo quy định.

Trường hợp đối tượng truy nã trong quá trình lẩn trốn lại phạm tội mới, rồi tiếp tục bỏ trốn, CQĐT thụ lý vụ án theo tội danh mới phải ra Quyết định truy nã theo tội danh mới đó (tức là một đối tượng có nhiều Quyết định truy nã). Trong trường hợp này, đối tượng bị bắt theo Quyết định truy nã của cơ quan nào thì nơi bắt được thông báo cho cơ quan đó đến nhận đối tượng. Nếu đồng thời bắt đối tượng theo hai Quyết định truy nã cùng một lúc thì căn cứ vào hành vi phạm tội nào của đối tượng nghiêm trọng hơn ghi trong Quyết định truy nã thì nơi bắt được phải thông báo cho cơ quan đã ra Quyết định đó đến nhận đối tượng. CQĐT đã nhận đối tượng phải thông báo cho CQĐT đã ra Quyết định truy nã còn lại biết. Các cơ quan đã ra Quyết định truy nã phải ra Quyết định đình nã và tiếp tục phối hợp điều tra theo thủ tục quy định.

+ Quyền hạn và trách nhiệm của Thủ trưởng Cơ quan CSĐT Bộ Công an: ra Quyết định truy nã, Quyết định đình nã đối với các đối tượng thuộc thẩm quyền điều tra của Cơ quan CSĐT Bộ Công an; quyết định xác lập chuyên án truy xét các đối tượng truy nã đặc biệt nguy hiểm khi xét thấy cần thiết; chỉ đạo Văn phòng Interpol Việt Nam tiến hành các thủ tục truy nã quốc tế và dẫn độ, tiếp nhận các đối tượng truy nã quốc tế đó; kiểm tra công tác truy nã của lực lượng CSND các cấp trong phạm vi toàn quốc và chỉ đạo toàn diện các mặt công tác truy nã của lực lượng CSND.

+ Quyền hạn và trách nhiệm của Chánh Văn phòng Cơ quan CSĐT Bộ Công an: theo dõi, hướng dẫn, kiểm tra, đôn đốc, chấn chỉnh công tác truy nã của lực lượng CSND trong phạm vi cả nước; đề nghị Văn phòng Interpol Việt Nam tiến hành các thủ tục truy nã quốc tế đối với các đối tượng thuộc thẩm quyền điều tra của mình, trao đổi thông tin về đối tượng để phối hợp tổ chức truy bắt, dẫn độ và tiếp nhận các đối tượng truy nã quốc tế; ra Quyết định truy

Xem tất cả 103 trang.

Ngày đăng: 31/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí